Friday, September 30, 2011

The Gospel as It was Revealed to me

( trích trong Quyển The Gospel as It was Revealed to me của MARIA VALTORTA - do Chúa Giê Su ban cho nhiều thị kiến về công cuộc rao giảng Nước Trời trong Israel. Phần giới thiệu về Bà và tác phẩm xem ở cuối trang này). Đây là bản dịch do bà Nguyễn Thị Chung dịch. Theo thiển ý của chúng tôi, xem bản dịch của Sơ Phạm Thị Hùng sẽ có một bản văn dễ đọc hơn.

(trên đây là ý kiến riêng của chúng tôi)

clip_image001Ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa

DỤ NGÔN NGƯỜI CON PHUNG PHÁ

Thư mục: poem of man-god

·

(Lc 15,11-32)

Thời gian: Năm thứ 2 đời sống công khai.

Địa điểm: Bêtania, nhà Lazarô.

Đối tượng: Gioan Enđo.

clip_image002

Giêsu nói khi Người xuất hiện tại ngưỡng cửa.

[Giêsu] Gioan Enđo, lại đây với Thầy. Thầy có điều muốn nói với con.

Gioan Enđo chạy vội, để lại đứa trẻ mà ông đã dạy cho điều gì.

[Enđo] Thầy muốn dạy con điều gì ạ?

[Giêsu] Đi với Thầy lên trên kia.

Họ đi lên sân thượng, ngồi ở phía khuất nắng nhất.

[Giêsu] Nghe đây Gioan. Thầy tin rằng hôm nay Isaac sẽ dẫn tới cho Thầy những nông dân của Giocana trước khi họ khởi hành. Thầy đã bảo Lazarô cho họ mượn cái xe để họ trở về cho lẹ, không thể để họ sợ về chậm, vì việc đó sẽ dẫn đến hình phạt cho họ. Và Lazarô đã cho mượn, vì Lazarô làm tất cả những gì Thầy bảo ông. Nhưng về con, Thầy muốn một điều khác. Ở đây Thầy có một món tiền mà một tạo vật đã cho Thầy để dành cho các người nghèo của Thầy. Thông thường thì do một trong các tông đồ của Thầy giữ quỹ và phát của bố thí. Các lần khác thì thường là Judas Kêriot. Lần này Judas không có ở đây. Còn những người khác, Thầy không muốn cho họ biết điều Thầy muốn làm. Cả Judas lần này cũng không biết. Chính con sẽ làm nhân danh Thầy.

[Enđo] Lạy Chúa! Con…Con… Ôi! Con không đáng…

[Giêsu] Con phải tập quen làm việc nhân danh Thầy. Không phải vì vậy mà con đã đến với Thầy sao?

[Enđo] Vâng. Nhưng con nghĩ rằng con phải làm việc để xây dựng lại linh hồn khốn nạn của con.

[Giêsu] Và Thầy, Thầy cho con các phương tiện. Con đã phạm tội về điều gì? Chống lại tình thương và tình yêu. Chính vì thù ghét mà con phá hủy tâm hồn của con. Chính nhờ tình yêu và tình thương, con sẽ xây dựng lại nó. Thầy cho con các vật liệu. Thầy sẽ dùng con cách đặc biệt cho các công việc của tình thương và tình yêu. Con có khả năng săn sóc. Con có khả năng nói. Với những thứ đó, con đủ tư cách để săn sóc những tật nguyền thể xác và tâm hồn, và con có quyền làm. Con sẽ làm cái khởi đầu của con trong vệc này. Hãy giữ lấy túi tiền, con sẽ phát cho Michée và các bạn ông. Hãy chia phần đồng đều, nhưng chia như Thầy bảo con: con chia làm mười phần, rồi con đưa cho Michée bốn phần: một phần cho ông, một phần cho Saul, một cho Joel và một cho Isaie. Còn sáu phần kia con đưa cho Michée để ông đưa cho người cha già của Jabê: cho ông và các bạn ông. Như vậy họ sẽ được một khích lệ.

[Enđo] Được, nhưng con sẽ nói gì với họ để minh chứng?

[Giêsu] Con sẽ nói: “Cái này để quý vị cầu nguyện cho một linh hồn được cứu chuộc”.

[Enđo] Nhưng họ có thể nghĩ rằng đó là linh hồn con thì không đúng.

[Giêsu] Tại sao? Con không muốn được cứu chuộc sao?

[Enđo] Không đúng, tức là nếu họ nghĩ con là người cho.

[Giêsu] Đừng lo lắng và hãy làm như Thầy bảo con.

[Enđo] Con vâng…nhưng ít nhất, Thầy cho phép con được thêm vào đó cái gì…dù sao bây giờ con chẳng cần nữa. Sách vở, con không mua nữa. Con không còn gà qué gì phải nuôi. Cho con, con chỉ cần một tí…Đây, Thầy, con chỉ giữ lại chút ít tiền để mua xăng đan…

Và từ cái túi tiền ông móc ở thắt lưng, ông đổ ra nhiều tiền cắc và bỏ chung vào với tiền của Giêsu.

[Giêsu] Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho con vì lòng thương xót của con…Gioan, chúng ta sắp rời nhau, vì con sẽ đi với Isaac.

[Enđo] Thưa Thầy, con buồn, nhưng con vâng lời.

[Giêsu] Thầy khổ vì phải xa con, nhưng Thầy rất cần các môn đệ di động. Thầy chưa có đủ. Sắp sửa Thầy tung các tông đồ đi, rồi Thầy sẽ sai các môn đệ đi. Con sẽ làm rất tốt. Thầy sẽ dành cho con các sứ mệnh đặc biệt. Trong khi chờ đợi, con hãy tự đào tạo với Isaac. Ông rất tốt, và Thánh Linh của Thiên Chúa đã thực sự giáo huấn ông trong cơn bệnh kéo dài của ông. Và đó là người biết luôn luôn tha thứ. Chúng ta chia tay. Ngoài ra, đừng nói rằng chúng ta không gặp nhau nữa. Chúng ta sẽ còn gặp nhau nhiều, và mỗi khi chúng ta gặp nhau, Thầy sẽ nói đặc biệt cho con. Con hãy nhớ vậy…

Gioan cúi xuống lấy hai tay ôm mặt, rên rỉ trong tiếng nấc.

[Enđo] Ôi! Vậy nói cho con ngay điều gì để cho phép con tin rằng con đã được tha…rằng con có thể phục vụ Thiên Chúa…Nếu Thầy biết rằng bây giờ đã tan biến đi những làn khói thù ghét, con thấy tâm hồn con…và…con nghĩ tới Thiên Chúa chừng nào…chừng nào!...

[Giêsu] Thầy biết, đừng khóc. Hãy ở khiêm nhường, nhưng đừng tự khinh. Tự khinh cũng còn là kiêu ngạo. Hãy chỉ có, chỉ có sự khiêm nhường mà thôi. Nào, đừng khóc…

Gioan Enđo từ từ bình tĩnh lại.

[Giêsu] Này, chúng ta hãy tới dưới tàn lá của cây táo để tụ họp các bạn và các bà. Thầy sẽ nói với tất cả. Nhưng Thầy sẽ nói với con: Thiên Chúa yêu con chừng nào!

Cả Lazarô đang nói chuyện với Zêlote cũng tới với các bạn. Cả thảy là hai mươi người.

Nội dung:

-        Hãy nghe: đây là một dụ ngôn rất đẹp mà ánh sáng của nó sẽ hướng dẫn các con trong rất nhiều trường hợp: Một người kia có hai đứa con trai. Thằng trưởng nam đứng đắn, siêng năng, yêu thương và vâng lời. Đứa thứ hai thông minh hơn đứa cả, vì quả thật, anh cả hơi hạn hẹp, để người khác hướng dẫn để khỏi mất công phải tự quyết định. Trái lại, ông con thứ lại ưa phản động, sao nhãng, bạn bè với xa hoa và chơi bời, hoang phí và lười biếng. Sự thông minh là một ơn trọng của Thiên Chúa, nhưng là một ơn cần được sử dụng cách khôn ngoan, nếu không, nó sẽ giống như những phương thuốc bị sử dụng cách quá đáng, nó sẽ không chữa bệnh mà làm cho chết. Người cha sử dụng quyền của ông và bổn phận của ông để nhắc nhở con thứ trở về lối sống khôn ngoan hơn, nhưng không kết quả, ngoại trừ phải nhận những câu trả lời dữ dằn, và nhìn thấy con ông trở thành cứng cỏi hơn trong những ý tưởng xấu của anh ta.

-        Sau cùng, một ngày kia, sau một cuộc cãi vả kịch liệt, đứa con thứ nói: “Hãy đưa cho con phần của cải thuộc về con, như vậy con sẽ không còn phải nghe những lời quở trách phàn nàn của ba nữa. Mỗi người giữ phần của mình để chấm dứt tất cả”.

-        Người cha trả lời: “Coi chừng, con sẽ mau chóng tiêu ma, khi đó con sẽ làm gì? Hãy nghĩ kỹ rằng cha sẽ chẳng bất công đối với con, cha cũng sẽ không lấy một xu nhỏ nào của anh con mà cho con”.

-        “Con không xin cha gì hơn. Cứ yên lòng. Hãy cho con phần của con”.

-        Người cha cho ước giá đất đai và các của quý. Sau khi nhận thấy rằng tiền mặt và các nữ trang có giá trị tương đương với đất đai, ông cho người con cả các vườn nho, các bầy súc vật và các vườn oliu, và cho người con thứ tiền mặt và các đồ nữ trang mà anh ta đem bán ngay để có tất cả bằng tiền. Làm vậy rồi, vài ngày sau anh ta trẩy đi một xứ xa, ở đó anh ta sống như ông đại chúa, tiêu xài món tiền của anh, vung vãi bằng đủ cách để làm như mình là con vua, vì anh ta xấu hổ khi nói: “Tôi người miền quê”. Như vậy anh ta từ chối ba anh. Tiệc tùng, bạn bè, trai gái, áo quần, tửu điếm, cờ bạc,…một đời phóng đãng…Anh ta mau chóng cạn kho dự trữ và đi tới chỗ bần cùng. Và với nỗi cơ hàn bị làm cho nặng nề hơn bởi nạn đói kém xảy ra trong miền ấy, nó đã làm tan biến chỗ còn lại trong cái kho của anh ta. Anh ta muốn đi tìm cha anh, nhưng anh ta kiêu căng nên không quyết định làm. Khi đó anh ta đi tìm một người giàu trong vùng mà anh ta đã là bạn khi tiền bạc còn dồi dào. Anh ta nói với người đó để xin: “Hãy nhận tôi vào số các đầy tớ của anh để ghi nhớ những lợi dụng mà tôi đã để cho anh kiếm được”. Các con coi, con người đó ngu xuẩn chừng nào! Hắn ta thích ở dưới gông của một ông chủ hơn là nói với cha anh: “Xin tha, con đã lầm!” Người trẻ này đã học biết bao điều vô ích với cái trí óc thông minh tỉnh táo của anh, nhưng anh ta đã không muốn học câu ngạn ngữ của Giáo hội: “Kẻ từ bỏ cha sẽ bị nhục nhã và kẻ làm khổ mẹ sẽ bị Thiên Chúa nguyền rủa”. Anh ta thông minh nhưng anh ta không khôn ngoan.

-        Người đàn ông mà anh ta đã xin, để đổi lại tất cả những sự mà ông ta đã lợi dụng được bằng cách làm tổn hại cho anh chàng ngu xuẩn này, liền sai tên ngu này đi chăn heo. Quả vậy, anh ta ở trong một vùng dân ngoại có rất nhiều heo, vậy ông sai anh ta tới những vùng sở hữu của ông để chăn các bầy heo. Bẩn thỉu, rách rưới, hôi hám, đói khát – bởi vì lương thực được đo lường cho mọi tôi tớ, nhất là với loại tôi tớ hạ cấp, vì anh ta là người ngoại quốc, một kẻ chăn heo đê hèn, anh ta thuộc loại này – Anh ta thấy bầy heo được ăn no nê những trái sồi, anh ta xít xoa: “Chớ gì tôi được nhét cho đầy bụng cái thứ trái cây này! Nhưng nó quá đắng, dù là đói, tôi cũng không thấy nó ngon”, và anh ta khóc khi nghĩ tới những bữa tiệc giàu sang như ông tổng trấn Ba Tư mà anh ta đã làm mới đây, giữa những tiếng cười, tiếng ca và khiêu vũ…Rồi anh ta nghĩ đến những bữa ăn ngay lành dồi dào tại căn nhà xa xôi của anh, với những phần anh mà cha anh làm cho mọi người một cách vô tư, trong khi ông chỉ giữ lại cho mình một phần ít nhất. Ông sung sướng thấy các con ông ăn uống ngon lành bổ dưỡng…và anh ta cũng nghĩ tới những phần ăn mà người công chính này chia cho các tôi tớ, và anh ta thở dài: “Các gia nhân của cha tôi, dù là loại thấp nhất, cũng có bánh ăn dư thừa…và tôi, ở đây, tôi đang chết đói!”

-        Một sự suy nghĩ lâu dài, một chiến đấu lâu dài để bẻ gãy sự kiêu căng…Sau cùng, tới một ngày, anh ta trở về với sự khiêm nhu và khôn ngoan. Anh ta đứng dậy và nói: “Tôi sẽ đi tìm cha tôi. Sự kiêu căng này là cái ngu xuẩn, nó đã giam giữ tôi. Và cái gì? Tại sao phải chịu đựng trong thân xác, và còn hơn nữa, trong quả tim, trong khi tôi có thể được tha thứ và nhẹ nhõm. Tôi đi tìm cha tôi. Nhất định. Tôi sẽ nói gì với người? Nhưng coi tôi đây, trong sự đê hèn này, trong cái đống rác này, bị đói cào cấu! Tôi sẽ nói với người: ‘Lạy cha, con đã phạm tội đối với trời và đối với cha. Con không còn đáng được gọi là con cha. Vậy xin cha đối xử với con như đứa tôi tớ rốt bét của cha, nhưng xin khoan dung cho con ở dưới mái nhà của cha, để con được thấy cha qua lại…’. Tôi không thể nói với người:‘Bởi vì con yêu cha’, người sẽ không tin điều đó, nhưng đời sống của tôi sẽ nói vậy với người, và người sẽ hiểu, và trước khi chết, người sẽ chúc lành cho tôi nữa…Ôi! Tôi hy vọng ở người, bởi vì cha tôi yêu tôi”.

-        Và buổi chiều trở về, anh ta từ giã ông chủ. Anh ta hành khất suốt lộ trỉnh và về tới nhà. Đây là các cánh đồng của cha…và nhà cha…và người cha điều khiển công việc, già nua và gầy đi vì đau khổ, nhưng luôn luôn nhân từ…Kẻ có tội, khi nhìn thấy sự hao mòn này mà anh ta là nguyên nhân, liền đứng lại, sợ sệt…Nhưng người cha quay lại nhìn thầy anh ta, liền chạy tới gặp, vì anh ta còn ở xa. Khi tới nơi, ông ôm lấy cổ anh và hôn anh. Chỉ mình người cha nhận ra con ông trong người ăn mày khiêm hạ này, và chỉ mình ông có một hành động tình yêu đối với anh.

-        Người con, được ghì chặt trong tay cha, gục đầu trên vai ông, anh ta thì thầm trong tiếng nấc: “Lạy cha, xin cho phép con quỳ phục dưới chân cha”. “Không, con của cha! Không ở chân, nhưng trên quả tim cha. Nó đã đau khổ biết bao vì sự vắng mặt của con, nó cần được sống lại do nó cảm thấy sức nóng của con trên ngực của cha”. Người con khóc mạnh hơn và nói: “Ôi, lạy cha, con đã phạm tội với trời và với cha. Con không đáng cha gọi con là con nữa, nhưng xin cho phép con sống giữa những người đầy tớ của cha, dưới mái nhà cha, được nhìn thấy cha và ăn bánh của cha trong khi phục vụ cha và uống hơi thở của cha. Với mỗi mẩu bánh, với mỗi hơi thở của cha, con tim quá trụy lạc của con sẽ được làm lại và trở nên ngay thật”.

-        Nhưng người cha, vẫn luôn luôn ôm chặt con, dẫn nó lại với các đầy tớ đang tụ họp ở hơi xa để quan sát. Ông nói với họ: “Mau đi, mang lại đây bộ y phục đẹp nhất và các chậu nước có dầu thơm. Hãy rửa cho cậu, xức thuốc thơm cho cậu, mặc đẹp cho cậu, đi giầy mới cho cậu và đeo nhẫn vào ngón tay cho cậu. Rồi hãy bắt một con bê béo và giết nó. Hãy sửa soạn đại tiệc, bởi vì con trai ta đã chết, nay sống lại, nó bị lạc mất mà được tìm thấy. Ta muốn rằng nó cũng tìm được tình yêu đơn sơ của đứa con nhỏ. Ta phải cho nó tình yêu, và tất cả hãy mừng lễ vì sự trở về của nó. Nó phải hiểu, đối với ta, nó vẫn là con út, giống như trong tuổi thơ xa xưa của nó, khi nó bước đi bên cạnh ta, nó làm ta sung sướng vì nụ cười của nó và tiếng nói huyên thuyên của nó…” Và các người đầy tớ làm tất cả những điều đó.

-        Người con cả ở ngoài đồng không hay biết gì cả cho tới khi anh ta trở về. Buổi chiều, lúc trở về, anh thấy nhà cửa sáng rực, và anh nghe thấy tiếng của các nhạc khí, tiếng khiêu vũ rộn ràng trong nhà vọng ra. Anh gọi một tên đầy tớ đang bận rộn lăng xăng, anh hỏi nó: “Có chuyện gì vậy?”. Người đầy tớ trả lời: “Em cậu đã trở về, và cha cậu liền khỏi mọi đau đớn, đã cho giết bê béo, vì ông đã nhận được con trai ông an toàn và được thoát khỏi mọi điều xấu của cậu, và ông đã ra lệnh dọn đại tiệc. Người ta chỉ còn chờ có cậu nữa là bắt đầu”. Nhưng người con cả nổi sùng, bởi vì anh ta thấy là bất công với những lễ lớn như vậy cho người con thứ, ngoại trừ nó là đứa trẻ tuổi hơn, còn thì nó là đứa xấu. Anh ta không muốn vào nhà cha, và ngay cả anh ta lảng ra xa nhà.

-        Nhưng người cha, khi được báo tin, đã chạy ra ngoài đón anh ta, cố gắng thuyết phục anh và xin anh đừng làm mờ nhạt niềm vui. Người con cả trả lời cha anh: “Cha muốn rằng con không phát sùng sao? Cha bất công và khinh dễ con cả của cha. Con, từ lúc con có thể làm việc, con đã phục vụ cha, và điều đó đã kéo dài bao năm trường rồi. Con không bao giờ vi phạm mệnh lệnh của cha hay ơ hờ với những ước muốn của cha. Con luôn luôn ở bên cạnh cha và con yêu cha cho cả hai để chữa trị vết thương mà đứa em con đã gây nên cho cha. Vậy mà cha không cho con, cả đến một con dê con để ăn lễ với các bạn con. Còn nó, nó đã xúc phạm đến cha, đã bỏ rơi cha; nó lười biếng và phá của, rồi nó trở về vì bị thúc đẩy bởi cái đói, thì cha lại quý trọng nó, và vì nó, cha giết con bê đẹp nhất. Có phải như vậy là nhọc công vô ích để siêng năng làm việc và không mắc tật xấu không? Điều này cha đã không phải làm cho con”. Khi đó người cha ôm ghì anh ta vào ngực mà nói với anh: “Ôi! Con của cha, con có thể tin được rằng cha không yêu con, vì cha đã không treo một cái màn ngày lễ trên các hành động của con sao? Chính các hành động của con đã là thánh, và mọi người ca ngợi con vì các hành động ấy. Nhưng trái lại, em con, nó cần được nâng dậy trong sự quý chuộng của mọi người, và trong sự tự quý chuộng của chính nó. Và con tin rằng cha không yêu con vì cha không cho con một phần thưởng hữu hình sao? Nhưng sáng, chiều, ở mỗi hơi thở của cha và mỗi ý nghĩ của cha, con đều hiện diện trong tim cha, và cha chúc lành cho con ở mỗi giây phút. Con đã có phần thưởng liên tục là luôn luôn ở với cha, và mọi sự của cha là của con. Nhưng thật chính đáng để mở một bữa tiệc và khoản đãi em con, vì nó đã chết mà nay nó sống lại trong điều thiện; nó đã lạc mất mà nay lại được tìm thấy trong tình yêu của chúng ta”. Và người anh cả trở lại với lý trí của anh ta.

-        Các bạn ơi! Đó cũng là điều xảy đến trong nhà Chúa Cha. Vậy kẻ tự biết mình ở vào hoàn cảnh của người con thứ trong dụ ngôn này, nó hãy nghĩ rằng nếu nó bắt chước anh ta trong việc trở về với Cha, người cha cũng nói với nó: “Không phải ở chân cha, nhưng trên con tim của cha đã đau khổ vì sự vắng mặt của con và bây giờ sung sướng vì sự trở về của con”. Chớ gì những kẻ thấy mình ở trong hoàn cảnh của người con cả và không có lỗi gì với cha, nó đừng ghen vì niềm vui của cha nó, nhưng nó hãy góp phần tặng ban tình yêu của nó cho đứa em đã được cứu chuộc của nó.

[Giêsu] Bây giờ chỉ ở lại Gioan Enđo, và con nữa Lazarô. Các người khác hãy đi dọn bàn ăn. Chúng ta sẽ đến ngay.

Chỉ còn lại một mình Giêsu với Gioan và Lazarô.

[Giêsu] Lazarô, cũng sẽ như vậy với linh hồn thân yêu mà con chờ đợi, và Gioan, cũng như vậy đối với linh hồn con. Lòng nhân từ của Thiên Chúa vượt qua mọi đo lường.

104. DỤ NGÔN ĐỒNG TIỀN ĐƯỢC TÌM THẤY.

Đăng ngày: 22:54 28-07-2010

Thư mục: poem of man-god

·

(Lc 15,8-10)

Thời gian: Năm thứ 2 đời sống công khai.

Địa điểm: Con thuyền chạy dọc bờ hồ từ Caphanaum tới Magđala.

Nhân vật: Maria Magđala ngồi dưới sàn thuyền bên chân Giêsu trong khi Người ngồi trên bục ở đầu mũi thuyền. Các tông đồ, Matta và Mẹ Maria.

clip_image003

Mọi người nói chuyện về lòng tốt của Porphyrê: rất đơn giản và rất dễ thương. Họ nói về sự đón tiếp tình nghĩa của Salômê và các bà trong gia đình của Batôlômêô cũng như Philípphê.

[Philíp] Nếu không vì lý do là chúng còn quá trẻ, và mẹ chúng không muốn thấy chúng ở ngoài đường, thì chúng cũng sẽ đi theo Thầy.

[Giêsu] Linh hồn chúng theo Thầy, và đó cũng là một tình yêu thánh. Philíp ơi, nghe Thầy này: đứa con gái cả của con sắp làm đám hỏi phải không?

[Philíp] Thưa Thầy, vâng. Đó là vị hôn phu xứng đáng, và nó sẽ là người chồng tốt. Có phải không, Batôlômêô?

[Batôlômêô] Đúng vậy. Tôi bảo đảm điều đó, vì tôi biết rõ gia đình này. Tôi không thể chấp nhận làm người mối lái, nhưng nếu tôi không bị giữ ở bên cạnh Thầy, thì với sự bảo đảm và bình an, tôi sẽ giúp nó thành lập một gia đình thánh.

[Giêsu] Nhưng cô gái trẻ đã xin Thầy nói với con là đừng làm gì hết.

[Philíp] Vị hôn phu không vừa ý nó sao? Vậy thì nó lầm. Nhưng tuổi trẻ điên lắm! Con hy vọng nó sẽ chịu nhận. Không có lý do gì để từ chối một ông chồng hảo hạng như vậy, nếu không là… Không thể được!

[Giêsu] Nếu không là sao? Nói tiếp đi, Philíp.

[Philíp] Nếu không là nó đã yêu một người khác. Nhưng điều đó không thể được! Nó không bao giờ ra khỏi nhà, và ở trong nhà, nó sống một đời rất kín đáo. Không thể được.

[Giêsu] Philíp, có những tình nhân có thể vào trong những căn nhà đóng cửa chặt nhất; người tình biết nói với những nàng mà họ yêu, dù cho tất cả những rào cản và những sự canh chừng; người tình phá hủy được tất cả những trở ngại mù quáng hay những trở ngại của tuổi trẻ được giữ gìn cẩn thận, hay… còn những thứ khác nữa, để lấy những nàng mà họ yêu. Cũng có những tình nhân mà người ta không thể từ chối, bởi vì họ là những người bất khả kháng trong ý chí của họ; bởi vì họ rất hấp dẫn để thắng mọi kháng cự, dù là của ma quỷ. Một trong những người đó đã yêu con gái của con, và là người mạnh nhất.

[Philíp] Nhưng ai? Một người trong triều Hêrôđê à?

[Giêsu] Đó không phải là một người mạnh.

[Philíp] Một người… một người trong nhà Thủ Hiến? Một quý tộc Rôma à? Con sẽ không cho phép điều đó với bất cứ giá nào. Dòng máu Israel tinh ròng sẽ không tiếp xúc với một dòng máu dơ bẩn. Thà rằng con giết con gái con. Xin Thầy đừng cười! Con khổ mà!

[Giêsu] Bởi vì con giống như một con ngựa sợ bóng. Con thấy bóng tối ở nơi chỉ toàn là ánh sáng. Nhưng con yên tâm. Ông Thủ Hiến không là một đầy tớ sao? Các bạn quý phái của ông không là những đầy tớ sao? César không phải là một đầy tớ sao?

[Philíp] Thầy giỡn hoài! Thầy muốn làm con sợ. Không ai lớn hơn César, và không có ai là chủ hơn ông ta.

[Giêsu] Có Thầy, Philíp ạ.

[Philíp] Thầy? Thầy muốn cưới con gái của con?

[Giêsu] Không. Linh hồn của nó. Thầy là người yêu xâm nhập được vào trong những căn nhà đóng kỹ nhất, vào những con tim còn khóa chắc hơn bảy và bảy lần chìa khóa. Thầy là người yêu biết nói, dầu cho có tất cả mọi thứ hàng rào và sự canh chừng. Thầy là kẻ phá hủy mọi trở ngại để lấy cái gì Thầy muốn: các kẻ trong sạch, các người tội lỗi, các trinh nữ, các bà góa, những kẻ không bị thói xấu xiềng xích và những kẻ là nô lệ của nó. Và với tất cả mọi người, Thầy cho một linh hồn duy nhất, mới mẻ, được hồi sinh, được hạnh phúc và trẻ trung đời đời. Đó là các lễ đính hôn của Thầy. Và không ai có thể từ chối cho Thầy các con mồi êm ái của Thầy, dù là cha, mẹ, con cái, kể cả satan. Thầy nói với linh hồn một cô gái nhỏ như con gái của con, hay với một người tội lỗi chìm ngập trong tội, bị satan cầm giữ bằng bảy sợi xích. Linh hồn sẽ đến với Thầy, và không có gì, cũng không người nào có thể giựt nó khỏi tay Thầy nữa. Không một giàu sang nào, một quyền hành nào, một niềm vui nào của thế gian có thể thông đạt được với niềm vui trọn vẹn, là niềm vui của những kẻ kết hợp với sự nghèo khó và sự hy sinh của Thầy. Lột bỏ mọi của cải hèn để mặc lấy mọi của cải trên trời; vui tươi trong sự trong sáng được thuộc về Thiên Chúa, chỉ một mình Thiên Chúa… Chính những người đó là chủ dưới đất và trên Trời. Là chủ trái đất vì họ thống trị nó, là chủ trên Trời vì họ đã chinh phục nó.

[Batôlômêô] Nhưng trong luật của chúng ta không có điều đó.

[Giêsu] Hãy lột bỏ con người cũ, Natanael. Khi Thầy gặp con lần đầu tiên, Thầy đã chào con khi gọi con là người Israel hoàn toàn, không gian dối. Nhưng giờ đây con thuộc về Đức Kitô, không thuộc về Israel nữa. Hãy thuộc về Đức Kitô không gian dối, không úp mở. Hãy mặc lấy cái tâm tính mới này, nếu không, con không thể hiểu biết bao vẻ đẹp của sự cứu chuộc mà Thầy mang đến cho toàn thể nhân loại.

[Philíp] Vậy con gái của con, Thầy nói là nó được Thầy gọi? Vậy nó làm gì bây giờ? Con, con không cãi lý với Thầy, nhưng con muốn biết, chỉ là để giúp nó. Lời kêu gọi của Thầy cốt tại điều gì?

[Giêsu] Dẫn đưa các bông huệ được dâng hiến bởi một tình yêu trinh nguyên vào trong khu vườn của Đức Kitô. Sẽ có rất nhiều trong các thế kỷ tương lai!... Rất nhiều!... Vườn cảnh thơm tho mùi hương để cân đối với sự ô trọc của các thói hư; các linh hồn cầu nguyện để cân đối với các kẻ phạm thượng và những kẻ vô thần; là sự trợ cứu cho tất cả các hoạn nạn của thế gian và là niềm vui của Thiên Chúa.

[Mađalêna] Vậy chúng con, những đổ nát mà Thầy đã nâng dậy, chúng con sẽ trở nên thứ gì?

[Giêsu] Giống như các chị em đồng trinh của các con.

[Mađalêna] Ôi! Không thể được! Chúng con đã dẫm lên quá nhiều bùn, và… và… không thể được.

[Giêsu] Maria! Maria! Giêsu không bao giờ chỉ tha một nửa. Thầy đã bảo con rằng Thầy tha cho con, thì sẽ là như vậy. Con và tất cả những ai phạm tội như con mà tình yêu của Thầy đã tha thứ và kết hôn, các con sẽ tỏa hương thơm, các con sẽ cầu nguyện, các con sẽ yêu, các con sẽ khích lệ. Các linh hồn này ý thức được điều xấu và biết rằng khả năng chữa trị ở đâu, trước mặt Thiên Chúa, họ là những vị tử đạo, vì thế họ cũng thân yêu đối với Người như các trinh nữ vậy.

[Mađalêna] Tử đạo à? Về cái gì vậy Thầy?

[Giêsu] Chống lại chính bản thân các con và những kỷ niệm của quá khứ, và bởi sự khao khát tình yêu và sự đền tội.

[Mađalêna] Con phải tin điều đó không?...

[Giêsu] Hãy hỏi Simon điều đó. Một buổi chiều kia, trong mảnh vườn đầy trăng sao soi sáng của nhà con, Thầy đã nói về con, và cách chung là về tất cả các kẻ tội lỗi. Các anh em của con có thể nói cho con lời Thầy đã hát lên cho tất cả những kẻ được cứu chuộc, về những kỳ công của lòng thương xót và sự hoán cải.

[Mađalêna] Đứa trẻ cũng đã nói điều đó với con bằng cái giọng thiên thần của nó. Khi con trở về, tâm hồn được tươi mát ra vì bài học của nó. Nó đã cho con biết về Thầy còn hơn chị con nữa, đến nỗi bữa nay con cảm thấy can đảm hơn để đối diện với Magđala. Bây giờ Thầy đã nói với con như vậy, con thấy sức mạnh của con lớn lên. Con đã làm gương mù cho thế gian, nhưng lạy Chúa, con thề với Thầy là bây giờ thế giới, khi nhìn vào con, họ sẽ biết thế nào là uy quyền của Thầy.

Thành phố Magdala trải ra trên bờ hồ, với mặt trời vươn lên trước núi Arbêla, ngọn núi che gió cho nó ở phía sau, và cái thung lũng hẹp với những sườn dốc thẳng và hoang dã. Nơi đây, một dòng suối đến từ phía Tây đổ vào hồ với những bờ dốc đầy vẻ đẹp mê hồn và khắc nghiệt.

[Gioan] Thầy ơi! Đây là cái thung lũng của tuần tĩnh tâm của chúng ta.

[Giêsu] Thung lũng của chúng ta, đúng. Thầy nhận ra ngay.

[Gioan] Người ta không thể không nhớ những nơi người ta đã nhận biết Thiên Chúa.

[Mađalêna] Trong khi con, con luôn luôn nhớ tới cái hồ này, vì chính ở đây, con đã biết Thầy. Chị biết không Matta, chính ở đây, một buổi sáng kia em đã thấy Thầy?

[Phêrô] Đúng, và chỉ chút xíu nữa là tất cả chúng ta, chúng tôi và quý vị, đều chìm xuống đáy. Bà ơi, hãy nhớ là các tay chèo thuyền của bà không đáng giá là bao.

[Mađalêna] Chúng tôi chẳng đáng giá gì, cả người nghèo, cả những người ở cùng với họ… Nhưng có điều là chính ở đây xảy ra cuộc gặp gỡ đầu tiên, và điều đó có giá trị lớn. Rồi sau đó con thấy Thầy ở trên núi, rồi ở Magđala, và rồi ở Caphanaum. Bao lần gặp gỡ là bấy nhiêu xiềng xích bị gãy… Nhưng Caphanaum là nơi đẹp nhất, vì ở đó Thầy đã giải phóng cho con…

Thuyền cập bờ, họ bước lên đất liền và đi vào thành phố.

Chỉ vì tò mò hay… một sự tò mò không đơn giản về phía những người dân của Magdala, là một hành hạ đối với Maria Mađalêna. Nhưng nàng chịu đựng cách anh hùng trong khi theo chân Thầy. Người đi ở đàng trước, giữa tất cả các tông đồ, trong khi ba người phụ nữ đi ở phía sau. Tiếng xì xào rất mạnh. Cũng không thiếu những lời chỉ trích. Tất cả những người vào thời mà Maria còn là tình nhân có ảnh hưởng ở Magdala, và họ đã nể nàng vì sợ bị trả đũa, bây giờ họ nhìn nàng, biết nàng đã xa lìa các bạn hữu mạnh thế, bây giờ nàng khiêm nhu, trong sạch, họ tự cho phép mình làm chứng về nàng, kể cả khinh bỉ, và quăng về phía nàng những hình dung từ ít nịnh hót hơn. Matta cũng khổ như nàng.

[Matta] Em có muốn về nhà không?

[Mađalêna] Không, em không rời Thầy. Và Người, trước khi căn nhà được thanh tẩy mọi dấu vết của quá khứ, em sẽ không mời Thầy vào.

[Matta] Nhưng em khổ mà em!

[Mađalêna] Em đáng vậy.

Họ đi qua hết thành phố Magđala, đi vào các khu dân nghèo cho tới căn nhà các ngài đã đến lần trước. Người đàn bà đứng sững, kinh ngạc khi ngước đầu qua bên trên bể giặt để coi xem ai chào, bà thấy mình ở trước mặt Giêsu và cái cô nổi tiếng của Magdala, không còn quần áo sang trọng, không còn phủ đầy nữ trang, nhưng đầu che bằng một tấm khăn gai nhẹ, ăn mặc màu xanh lơ phớt hồng, một cái áo cộc, chật, chắc chắn không phải áo nàng, dù người ta đã cố làm cho vừa, choàng một áo khoác nặng mà chắc chắn là một cực hình với sức nóng này.

[Giêsu] Bà có cho phép Thầy dừng lại trong nhà bà để nói với những người theo Thầy không?

[Bà chủ] Lạy Chúa, sao Thầy lại hỏi con vậy? Nhà con thuộc về Thầy.

Bà vội vã đi lấy các ghế ngồi, các băng để cho các bà và các tông đồ. Khi đi qua gần Maria Mađalêna, bà cúi xuống như một người nô lệ.

[Mađalêna] Bình an cho bà, bà chị.

Người đàn bà ngạc nhiên tới nỗi bà để rơi chiếc ghế nhỏ bà cầm trong tay. Nhưng bà không nói gì. Sự ngạc nhiên của người đàn bà càng lớn khi bà nghe nàng hỏi các đứa trẻ thế nào, chúng đâu, chài lưới có khá không.

[Bà chủ] Chúng khỏe mạnh…Chúng ở nhà trường hay ở nhà mẹ tôi, chỉ có đứa nhỏ đang ngủ trong nôi. Chài lưới khá, chồng tôi sẽ mang cho cô số mười phần trăm…

[Mađalêna] Không, không phải mang nữa. Hãy giữ lấy cho các con bà. Bà cho phép tôi coi đứa bé không?

[Bà chủ] Mời vào.

Người ta đã kéo tới đầy đường. Giêsu bắt đầu nói.

Nội dung:

-  Một người đàn bà có mười đồng bạc trong túi, nhưng trong khi bà hoạt động, túi tiền tuột khỏi bụng, nó mở ra, các đồng tiền rơi trên đất. Bà lượm lại, với sự giúp đỡ của các bạn hàng xóm hiện diện, và bà đếm. Chỉ có chín đồng, đồng thứ mười không tìm thấy. Vì buổi tối đã gần và thiếu ánh sáng, người đàn bà đốt đèn và để trên đất. Bà lấy chổi và quét cẩn thận để coi xem đồng tiền có lăn đi xa khỏi chỗ rơi không. Nhưng không thấy đồng tiền. Các bạn bà bỏ đi, nản lòng, thôi không tìm nữa. Khi đó người đàn bà di chuyển cái rương, cái kệ, kể cả một chiếc rương nặng, xê dịch các hũ, các bình đặt tại các lỗ trong tường… Nhưng vẫn không thấy đồng tiền. Khi đó bà bắt đầu bò bốn chân và tìm trong đống rác rến ở gần cửa nhà để xem lỡ ra đồng bạc có lăn ra ngoài nhà và lẫn lộn vào các lá rau, vỏ rau không. Và sau cùng bà đã tìm được đồng bạc, hoàn toàn dơ bẩn, hầu như bị vùi trong đống rác rến và rau cỏ thối đã lấp trên nó.

-  Người đàn bà đầy vui mừng, cầm nó đem rửa, lau chùi. Bây giờ nó lại đẹp hơn trước. Bà giơ nó cho các bạn hàng xóm mà bà đã gọi trở lại bằng những tiếng kêu lớn, những kẻ đã rút lui sau một lúc tìm kiếm. Bà nói với họ: “Đây, các bạn coi! Các bạn đã khuyên tôi đừng nhọc công tìm kiếm hơn, nhưng tôi đã kiên tâm, và tôi đã tìm thấy đồng bạc đã mất. Vậy các bạn hãy vui với tôi, vì tôi không phải chịu cái khổ phải mất một đồng trong số kho tàng của tôi”.

-  Thầy của các con cũng vậy, và các tông đồ của Người cùng với Người, làm giống như người đàn bà trong dụ ngôn. Người biết rằng một cử động có thể làm rơi mất một kho tàng – mỗi linh hồn là một kho tàng – và satan, kẻ ghét Thiên Chúa, gây ra những cử động xấu để làm rơi các linh hồn khốn nạn. Có những kẻ, trong lúc rơi té, dừng lại ở gần cái túi tiền, tức là đi hơi ra xa Lề Luật của Thiên Chúa, Đấng gìn giữ các linh hồn dưới sự bảo vệ của các giới răn của Ngài. Có những kẻ đi xa hơn, tức là xa lìa Thiên Chúa và giới răn của Ngài hơn. Sau cùng, có những kẻ lăn tới tận các đống rác, các đồ phế thải, các chỗ bùn nhơ, và ở đó, nó sẽ kết thúc bằng cách hư đi, bị thiêu trong lửa đời đời, giống như những vật dơ dáy mà người ta thiêu đốt trong những nơi đặc biệt.

-  Vị Thầy biết vậy, và Người tìm kiếm không biết mệt những đồng bạc bị mất. Người tìm chúng ở khắp nơi với tình yêu. Đó là những kho báu của Người, và Người không cho phép mình mệt, cũng không để mình chán nản vì bất cứ cái gì. Nhưng Người lục lọi, moi móc, lúc lắc, quét tước, cho tới khi Người tìm thấy nó. Khi Người đã tìm thấy nó, Người rửa nó bằng sự tha thứ của Người. Người gọi các bạn của Người: toàn thể Thiên Đàng, và tất cả các người lành trên trái đất, và nói: “Hãy vui với Ta, vì Ta đã tìm thấy kẻ đã lạc mất. Bây giờ nó còn đẹp hơn trước, vì sự tha thứ của Ta đã làm cho nó thành một thứ mới”.

-  Thật vậy, Thầy bảo các con: sẽ có một lễ lớn trên Trời, và tất cả các thiên thần của Thiên Chúa cũng như các kẻ lành trên trái đất, sẽ vui mừng khi một người tội lỗi trở lại. Thật vậy, Thầy bảo các con: không có gì đẹp hơn nước mắt thống hối. Thật vậy, Thầy bảo các con: chỉ có ma quỷ mới không biết, và không thể vui mừng vì sự cải thiện là chiến thắng của Thiên Chúa. Thầy cũng bảo các con rằng: cách thức mà một người đón nhận sự cải thiện của một tội nhân cho ta biết mức độ về lòng nhân từ của họ, và về sự kết hợp của họ với Thiên Chúa.

-  Bình an cho các con.

Người ta hiểu lời giáo huấn và họ nhìn Maria Mađalêna. Nàng đến ngồi tại cửa với đứa bé trong tay, có lẽ là để được bình tĩnh.

Mọi người từ từ xa dần, chỉ còn lại bà chủ căn nhà nhỏ và mẹ bà ta – người đã tới với các đứa trẻ – thiếu Benjamin, vì nó còn ở nhà trường.

94. Dụ ngôn con chiên lạc.

Đăng ngày: 23:49 10-06-2010

Thư mục: poem of man-god

·

(Mt 18, 12-14 ; Lc 15, 4-7)

Thời gian : Năm thứ 2 đời sống công khai. 1 buổi tối đẹp và trong sáng của đầu mùa hè.

Địa điểm : Caphanaum. Đức Giêsu ở trên bờ 1 cái thác trồng đầy cây ; đám đông tụ tập trong cánh đồng lúa miến đã được cắt hết.

Khung cảnh : Các đàn vật đang về chuồng, tiếng leng keng của chuông nhạc hòa lẫn với tiếng hát điếc tai của dế hay ve sầu.

Đối tượng : Maria Magdala ở bên kia cái bờ dốc được bao quanh bởi con đường ở đằng sau Đức Giêsu. Nàng ăn mặc kín đáo, che kín dưới lớp voan sậm mầu. Người ta không nhìn thấy nàng.

clip_image004

Nội dung :

-          Cha của các con giống như người chăn chiên ân cần. Người chủ chăn tốt thì làm gì ? Họ tìm các đồng cỏ tốt cho đoàn vật, nơi không có cây độc cần hay những cây nguy hiểm khác, nhưng có toàn những cỏ ngon lành, cỏ thơm và những thứ rau tuy đắng nhưng tốt cho sức khỏe. Ông tìm những nơi có đồ ăn, đồng thời cũng có bóng mát, có suối nước trong, có cây cao cho bóng mát mà không có rắn độc giữa đám cỏ xanh. Ông không lo lắng tìm những đồng cỏ tươi cao rậm rạp, vì ông biết rắn độc nấp ở đó dễ dàng để rình, và có những thứ cỏ có hại, nhưng ông thích những đồng cỏ miền núi, nơi sương đêm làm cho cỏ sạch và tươi, và mặt trời xua đuổi đi những loài bò sát ; nơi có không khí trong lành và gió chỉ lay nhẹ, không có sự nặng nề và thiếu trong sạch của miền đồng bằng. Người chủ chăn tốt canh chừng trên các con chiên, từng con một. Ông săn sóc nó nếu nó bệnh, ông băng bó cho nó nếu nó bị thương. Với những con có thể bệnh vì phàm ăn, ông cao giọng can ngăn. Với những con có thể đau bởi ở hoài trong nơi ẩm thấp, hoặc ở quá lâu ngoài mặt trời, ông bảo đi lại chỗ khác. Nếu một con chê ăn, ông tìm cho nó những cỏ chua và thơm có thể kích thích khẩu vị, và chính tay ông đem đến cho nó và nói với nó như một người bạn.

-          Đó chính là cách cư xử của người Cha nhân từ trên trời đối với con cái Người còn lữ thứ trên mặt đất. Tình yêu của Người là cây gậy để tụ họp họ, tiếng Người hướng dẫn họ ; các đồng cỏ là lề luật của Người, chuồng chiên của Người là Nước Trời.

-          Nhưng đây, có một con chiên bỏ Người mà đi. Người yêu nó chừng nào ! Nó còn trẻ, ngây thơ trắng tinh như một khóm mây nhẹ trong bầu trời tháng tư. Người mục tử nhìn nó với biết bao tình yêu trong khi nghĩ đến bao điều tốt ông có thể làm cho nó, và tất cà tình yêu ông có thể nhận được nơi nó. Nhưng nó lại bỏ rơi ông.

-          Dọc con đường ở biên giới đồng cỏ có một đứa cám dỗ đã đi qua. Nó không mang cái nón khắc khổ, nhưng nó mặc y phục muôn mầu. Nó không thắt đai lưng da có đeo cái rìu và con dao, nhưng một cái dây lưng bằng vàng có đeo những cái chuông vang lên những tiếng kêu như bạc, du dương như tiếng hót chim họa mi, và những ống dầu thơm làm ngây ngất… Nó không có cây gậy mà người chủ chăn tốt phải có để tụ họp và bảo vệ con chiên, và nếu cây gậy không đủ mạnh thì ông sẵn sàng bảo vệ chúng bằng cái rìu và con dao, cho dù phải mất mạng. Đứa cám dỗ đi qua, cầm trong tay nó một bình hương sáng loáng đầy đá quý, bốc lên một thứ khói vừa thơm vừa thối, làm lóa mắt như các mặt nhỏ của hạt kim cương. Ôi ! Giả dối chừng nào ! Nó vừa đi vừa hát, để rơi trên con đường tối những nắm muối sáng loáng.

-          Chín mươi chín con chiên nhìn nó không nhúc nhích. Con thứ một trăm, con nhỏ nhất và thân yêu nhất, nhảy một phát và biến mất sau đứa dụ dỗ. Người mục tử gọi nó nhưng nó không trở lại. Nó chạy đi còn nhanh hơn gió, để gặp kẻ đã đi qua. Và để tăng sức trong cơn theo đuổi, nó ăn những hạt muối trên đường. Muối này thấm vào nội tạng của nó và thiêu đốt nó bằng một sự khoái trá kỳ lạ, xô đẩy nó đi tìm những dòng nước đen và xanh trong rừng sâu tăm tối. Và ở trong rừng, khi chạy theo đứa dụ dỗ, nó đắm chìm, nó đi sâu mãi vào ; nó đi lên, đi xuống, và nó té ngã… một lần, hai, ba lần. Và một, hai, ba lần nó cảm thấy ở chung quanh cổ nó cái quấn quít nhơn nhớt của loài bò sát. Bị khát, nó uống thứ nước dơ, bị đói, nó ăn những cây cỏ sáng bóng do một chất nhớt ghê tởm.

-          Trong lúc đó người mục tử tốt làm gì ? Ông để vào một nơi an toàn chín mươi chín con chiên trung thành, rồi ông lên đường. Ông không dừng lại cho tới khi tìm ra dấu vết của con chiên lạc. Bởi vì ông gởi tiếng gọi của ông tới cho nó qua làn gió, nhưng nó không trở lại với ông nên ông đến với nó. Từ xa, ông nhìn thấy nó đang say sưa và bị cuốn chặt bởi các loài bò sát. Nó say sưa tới nỗi nó không nuối tiếc khuôn mặt của kẻ yêu nó, nó còn cười nhạo ông. Và ông gặp được nó. Nó có tội vì đã vào trong nhà người khác như một kẻ trộm. Nó có tội đến nỗi nó không dám nhìn mặt ông… Nhưng người mục tử không nản lòng… Ông đi, ông tìm, ông tìm, ông theo dõi nó, ông quấy rối nó, ông khóc trên dấu vết của kẻ lạc. Một mảnh da : một mảnh linh hồn ; một vết máu : các sai phạm đủ thứ ; các đống rác : bằng chứng sự dâm ô của nó. Ông đi, và ông gặp nó.

-          A ! Ta đã gặp con ! Con cưng nõn của Ta ! Ta đã tìm thấy con. Bao là đường đất Ta đã đi vì con, để dắt con về chuồng. Đừng gục cái trán dơ bẩn của con xuống. Tội lỗi con đã bị chôn sâu trong quả tim Ta. Không một ai biết nó ngoài Ta là kẻ yêu con. Ta sẽ bảo vệ con cho khỏi những phê phán của những người khác. Ta sẽ che phủ cho con bằng chính Ta, để làm cái mộc che cho con khỏi những viên đá của những kẻ kết án con. Hãy tới đây. Con bị thương à ? Hãy chỉ cho Ta các vết thương của con. Ta biết nó, nhưng Ta muốn con chỉ nó cho Ta với sự phó thác mà con có khi con còn trong sạch, khi con nhìn Ta, chủ chăn của con và Thiên Chúa của con, với cặp mắt thơ ngây. Đây, các vết thương đây. Tất cả chúng có cùng một tên. Ôi ! Chúng sâu chừng nào ! Ai đã làm nên nó quá sâu như vậy, các vết thương ở đáy con tim này ? Đứa cám dỗ, Ta biết. Chính nó, kẻ không có gậy, cũng không có rìu, nhưng nó gây thương tích sâu bằng những miếng cắn tẩm nọc độc. Và sau nó là các nữ trang giả của cái bìnhh hương của nó, đã lôi kéo con bằng vẻ chớp sáng của nó… Nó là chất lưu huỳnh chí tử, đã sản xuất ra ánh sáng để thiêu đốt tim con. Hãy nhìn này ! Bao là vết thương ! Bao là mảnh da bị rách, bao là máu, bao là gai !

-          Ôi ! Tâm hồn nhỏ khốn khổ bị ảo tưởng ! Nhưng hãy nói cho Ta : nếu Ta tha cho con, con sẽ còn yêu Ta ? Hãy nói cho Ta : nếu Ta mở cánh tay ra cho con, con sẽ lăn xả vào đó ? Hãy nói cho Ta : con có khát tình yêu trong sạch không ? Vậy hãy tới. Hãy trở lại đời sống, hãy trở lại đồng cỏ thánh. Con khóc thì nước mắt con hòa với nước mắt Ta, sẽ rửa các vét tội của con. Và Ta, để nuôi con, vì con bị kiệt quệ bởi những sự dữ nó thiêu đốt con, Ta sẽ mở trái tim Ta ra, Ta mở các mạch máu của Ta ra và Ta nói với con : « Hãy nuôi mình và hãy sống ».

-          Hãy đến để Ta ẵm con trong tay, chúng ta sẽ đi mau hơn tới đồng cỏ thánh và an toàn. Con sẽ quên tất cả những giờ thất vọng, và chín mươi chín chị em con, những người tốt, sẽ vui mừng vì sự trở về của con.

-          Thầy nói với con, hỡi con chiên lạc của Thầy, Thầy đã đi rất xa để tìm con. Thầy tìm thấy con, Thầy cứu con. Các người khác sẽ làm một buổi lễ rất lớn để vui vì một con chiên đã mất, nay lại trở về, hơn là chín mươi chín kẻ công chính không ra khỏi chuồng.

MARIA VALTORTA & The Gospel as It was Revealed to me

Maria Vân Tước Tử

clip_image005
Maria Valtorta sinh tại Caserta , Ý, ngày 14 tháng Ba năm 1897 và mất ngày 12 tháng 10 năm 1961 năm Bà 64 tuổi. Cha bà là lính chuyên nghiệp, nên gia đình thuyên chuyển thường xuyên khắp đất Ý . 
Năm 1920, trong khi đi bên mẹ, bà bị một tên vô lại đánh một thanh sắt vào lưng, khiến bà liệt giường ba tháng. Vết thương ảnh hưởng bà suốt đời .

Năm 1924 , gia đình định cư vĩnh viễn tại Viareggio, miền Toscane.

Ngày 1 tháng Bẩy năm 1931 bà dâng mình cho Chúa như một hy tế đền tội nhân loại. Từ đó sức khoẻ bà suy kém rất nhanh . Từ muà xuân năm 1931, bà liệt giường và chịu đau đớn triền miên cho đến lúc chết .
Bà để lại 122 cuốn tập, gần 15000 trang giấy chép tay, ghi lại những thị kiến và mạc khải bà nhận được từ năm 1943 cho đến năm 1951.

Tác phẩm quan trọng nhất là bộ "Le Poème de L'Homme-Dieu" (The poem of the Man-God, bản in lần 1), xuất bản bằng tiếng Pháp, gồm 10 tập, mang tựa đề "L'Evangile, tel qu'il m'a été révélé" (The Gospel as It was revealed to me, bản in lần 2).

Những tác phẩm khác không liên quan tới Phúc Âm. được phát hành tuần tự bằng tiếng Ý theo năm phát hành như sau : Quaderni del 1943, Quaderni del 1944 et Quaderni dal 1945 al 1950.

Bộ sách 10 cuốn «L'Evangile tel qu'il m'a été révélé» không chỉ là một tác phẩm luôn gây nhiều thích thú mà còn là nguồn suy niệm dồi dào để thấu hiểu hơn tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. 
Đức Piô XII đã khuyến khích phát hành tác phẩm ấy (Sách đã từng bị liệt vô hàng sách cấm nhưng sau đó đã được tháo bỏ, việc này lịch sử cũng diễn ra vài lần đối với 1 vài cuốn sách khác, nhưng đừng vì thế mà nghĩ rằng những quyển sách còn lại trong danh sách cấm có thể có những cuốn mà Tòa Thánh đánh giá sai :D Đánh giá lần đầu có thể chưa đúng, nhưng sau nhiều lần đánh giá thì mức độ chính xác sẽ cao hơn đúng hog :D ). Đó là toàn thể những thị kiến về những cảnh sinh hoạt trong cuộc đời trần thế cuả Chúa Giêsu, từ thời thơ ấu của Đức Mẹ Maria cho đến những ngày đầu Giáo Hội phát sinh. 
Tác phẩm cho thấy người viết biết tường tận cặn kẽ về thảo mộc địa phương, về văn hóa, phong tục, tập quán, về địa hình địa vật của xứ Palestine. Đó là những chi tiết mà Maria Valtorta, một bệnh nhân liệt giường, hoàn toàn không thế có kinh nghiệm thực địa . Bà chỉ có cuốn Phúc Âm trong tay, ngay tại giường nằm.

Bà như một nhân chứng, đứng giữa biến cố mà mục kích tận mắt biến cố đang xảy ra, y hệt như một môn đệ. Bà ngửi được mùi hương. Bà cảm được nhiệt độ nóng lạnh lúc ấy. Bà quay lại sau để nhìn người đang đến sau lưng mình.

Hơn nữa tâm lý các nhân vật Bà ghi lại rất phức tạp. Bà ghi rõ ràng các đặc thù của các Tông đồ . Bà theo sát những cố gắng của Chúa Giêsu dành cho Giuda. Bà suy niệm cặn kẽ vai trò của Mẹ Maria, thái độ của các nhóm Do Thái ...

Xin đọc bản văn giới thiệu các công trình dịch thuật ra tiếng Việt này do chính dịch giả, linh mục Nguyễn Phương, viết từ năm 1992:

“Đức Trinh Nữ Trong Di Bút của Chị Maria Vân Tước Tử. Đây là một tập sách tuyệt tác của một linh mục người Ý Gabriel M. Roschini, một tác giả đã suốt đời nghiên cứu về Đức Mẹ, và đã viết 920 mục về đề tài này. Trong số các đề tài vừa nói, có 123 đề tài là nhan đề của những bộ sách hoặc những tập sách lớn về Thánh Mẫu Học. Nhưng theo ý của Roschini cũng như theo ý của những ai đã đọc người, tập “Đức Trinh Nữ...” nói đây là tuyệt tác của tất cả văn nghiệp người. Chính người, sau khi đã đọc hàng ngàn thứ sách báo về Đức Mẹ, cũng so sánh, nói: “So sánh Đức Trinh Nữ do tôi cùng các đồng liêu của tôi trình bày, với Đức Trinh Nữ của Chị Maria Vân Tước Tử trình bày, dường như có một sự cách biệt tương tự sự cách biệt giữa một pho tượng đắp bằng bột giấy với chính Đức Maria đang sống, hay giữa một Đức Trinh Nữ được phác họa bằng những nét chỗ đậm chỗ nhạt lộn xộn với một bức họa Đức Trinh Nữ hoàn hảo về mọi phương diện, về mọi khía cạnh”.

Chính Đức Maria sống này, chính bức họa Đức Trinh Nữ hoàn hảo về mọi phương diện, về mọi khía cạnh này, đang được Cha Roschini trình diện chúng ta qua lời của Chị Maria Vân Tước Tử. Và lời của Vân Tước Tử là chính lời của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su, hoặc đã cho Chị ta thấy những thị kiến về cuộc đời Người và đời Đức Mẹ, hoặc đã đọc cho Chị ta chép những ý nghĩ của Người. Không lạ gì những điều Chị ta viết ra đều là những nét thần tình hoặc là những tư tưởng kỳ diệu. Chẳng những về Đức Mẹ, như chúng ta thấy trong tập sách này, mà còn là về các tông đồ, về giáo hội sơ khởi, nhất là về Chúa Giê-su. Linh động biết bao, thân thế của những người như Lazaro và người em gái thống hối của ông ta, Maria Magdalena! 
Chính việc đọc sách này của Cha Roschini đã thúc đẩy chúng tôi đến việc phiên dịch toàn bộ Il Poema Dell’Uomo-Dio (Người Thần Chuyện Thánh) 49 của Chị Vân Tước Tử. Đây là một bộ sách chúng tôi sắp xuất bản bằng Việt ngữ. Thật là một bộ sách đồ sộ, đồ sôï cả về lượng, cả về phẩm. Về lượng, trong tiếng Việt, nó sẽ gồm 14 quyển dày ít ra bằng quyển Đức Mẹ này. Về phẩm, thì nó phải nằm ngay ở chót vót đỉnh giá trị của văn chương Công Giáo sau Phúc Âm. Đồ sộ, nhưng dễ đọc, bởi lẽ nó được làm thành bởi những chuyện thánh, có chuyện ngắn, có chuyện dài, nhưng chuyện nào hầu như cũng đầy đủ ý nghĩa cho chuyện đó. Nói về Thánh gia có 72 chuyện, về năm thứ nhất đời công Chúa Giê-su 107 chuyện, về năm thứ hai 178 chuyện, về năm thứ ba 309 chuyện, và 38 chuyện nữa ăn về thời vinh hiển kể từ khi Chúa Giê-su sống lại cho đến khi Đức Mẹ Linh Hồn và Xác được rước về Trời. Như thế là gồm 704 chuyện, trừ các chuyện được đọc cho chép, hầu như chuyện nào cũng chứa đầy dẫy những chi tiết về vị trí mặt trăng, vị trí mặt trời, về thời tiết, về ngày trong tuần. Theo dõi các chi tiết thời gian trước sau ăn khớp nhau một cách lạ lùng, một việc mà các chuyên gia về thời ký cũng không thể nào làm được suốt một tác phẩm dài, nói về một chuyện hai mươi thế kỷ về trước, và phức tạp như thế. Dựa trên sự thủy chung lạ lùng này, Jean Aulagnier đã có thể lập lại từng ngày, ngày này rồi ngày khác, các hoạt động Chúa Giê-su suốt ba năm của cuộc đời công, kết quả là tập sách Avec Jésus, Au Jour Le Jour (Nhật Ký Chúa Giê-Su) mà chúng tôi cũng đã dịch và sẽ xuất bản sau tập sách của Roschini. 
Cũng như tập sách của Roschini, tác phẩm của Aulagnier là một bằng chứng không sao chối cãi về nguồn gốc phi thường của bộ Người Thần Chuyện Thánh. Tác giả của bộ này, Chị Maria Vân Tước Tử, chỉ là một học sinh tốt nghiệp trung học, khi viết, lại là một người tàn tật liệt giường, không thể giúp mình được cái gì, đến cả việc lấy một quyển sách cách chỗ Chị ta ngồi hơn một mét, nghĩa là ngoài tầm tay của Chị ta, vì thân thể Chị ta bất động. Đó là chưa nói đến năm bảy thứ bệnh đang hoành hành Chị ta, làm cho Chị ta đau đớn mình mẩy, choáng váng đầu óc.

Phần chúng tôi, chính vì nhận thấy tính cách phi thường được minh chứng rõ ràng trong các tập sách các tác giả Roschini và Aulagnier nên đã bắt tay dịch tất cả bộ Người Thần Chuyện Thánh. Cũng vì đó mà nay, trước khi cho in bộ sách vừa nói, chúng tôi xuất bản bản dịch của các tập sách Cha Roschini và Aulagnier để dọn đường. Chúng tôi đinh ninh rằng quý vị cũng sẽ có những cảm nghĩ như chúng tôi khi tiến dần trên đường tầm đạo với Maria Vân Tước Tử.”

Nguyễn đức Cung(trích SỬ GIA NGUYỄN PHƯƠNG (1921-1993) VÀ NỖ LỰC KHAI PHÁ HƯỚNG BIÊN KHẢO MỚI TRONG NGÀNH SỬ HỌC VIỆT NAM. tạp chí ĐV số 38 )

[ Theo 1 thông tin mình từng đọc, bộ sách này từng được Giáo Hoàng học viện Piô X dịch, nhưng không biết là đã hoàn chỉnh và từng được xuất bản ở Việt Nam bao giờ chưa. Dầu gì cũng cảm ơn dịch giả Nt. Phạm Thị Hùng, CMR đã dịch bộ sách được in ra gần đây nhất này (năm 2009). Tạ ơn Chúa, không thôi con đã uổng mất nửa đời người rồi. Chúa đã nhận lời con cầu. ]
Quyển 1: Chuẩn bị
Quyển 2: Năm thứ nhất đời sống công khai
Quyển 3, 4: Năm thứ 2 đời sống công khai
Quyển 5, 6, 7: Năm thứ 3 đời sống công khai
Quyển 8: Chuẩn bị cuộc tử nạn
Quyển 9: Cuộc tử nạn
Quyển 10: Vinh quang


No comments:

Post a Comment