Wednesday, September 28, 2011
Sách Tự Thú của Thánh Augustine
Lời Giới Thiệu
"Chúa tạo nên trái đất con yêu
Sunday, September 25, 2011
NHỮNG CHỦ ĐỀ LỚN TRONG TRIẾT HỌC TÂY PHƯƠNG
Để hướng dẫn sinh viên khởi sự đi vào khu rừng mênh mông của lịch sử triết học phương Tây, các sách giáo khoa triết Tây thường gom những cuộc tranh luận hay hệ thống triết học vào những chùm chủ đề lớn. Chẳng hạn chủ đề tri thức luận (epistemology) tập trung vào những câu hỏi như:
Con người tri thức thế giới xung quanh như thế nào? Bằng những tư tưởng bẩm sinh có sẵn (innate ideas)hay bằng giác quan thuần túy (pure senses)?
|
Friday, September 23, 2011
ĐỌC VỀ KITÔ HỌC
ĐỌC VỀ KITÔ HỌC
Các khảo luận này được công bố trong bộ sách có tầm cỡ bách khoa tựa là Die Religion in Geschichte und Gegenwart, một công trình tra cứu nhiều tập về Tôn Giáo và Thần Học, xuất hiện lần đầu các năm 1909-1913 thời Đế Quốc Đức; lần hai các năm 1927-1932 thời Cộng Hòa Weimar; và lần ba các năm 1956-1962 thời Công Hòa Liên Bang Đức. Chúng được Jaroslav Pelikan, giáo sư Đại Học Yale, chọn và giới thiệu với độc giả tiếng Anh dưới tựa đề Twentieth Century Theology in the Making, 3 tập, xuất bản lần đầu năm 1970 do nhà Fontana Books, London, và Harper & Row, New York.
Jaroslav Pelikan (17/12/1923-13/5/2006) là giáo sư sử học tại Đại Học Yale, tác giả của nhiều tác phẩm sử học về Kitô giáo rất nổi tiếng. Cha mẹ ông vốn theo giáo phái Luthêrô. Riêng ông, lúc xế chiều đã gia nhập Giáo Hội Chính Thống. Nhưng hai tác phẩm Jesus Through The Centuries (1985) và Mary Through The Centuries (1996) đã được mọi giáo hội Kitô giáo chào đón niềm nở.
Bài đầu tiên được trình bầy dưới đây là của Martin Dibelius (14/09/1883-11/11/1947) người đã cùng Rudolf Bultmann khai sinh ra phương pháp Phê Bình Hình Thức (Form Criticism), được chính ông áp dụng để nghiên cứu Tân Ước, với tác phẩm để đời “Form Criticism of The Gospels” xuất bản năm 1919. Ông là giáo sư Tân Uớc tại Đại Học Heidelberg trong 32 năm. Bài thứ hai là của Hermann Bauke (1886-1928) vốn là huấn đạo, sau thành giáo sư và mục sư tại Halle. Bài ba là của Georg Wehrung (1880, không rõ chết năm nào), giáo sư thần học hệ thống tại Strasbourg, Munster, Halle và Tubingen.
Chúng tôi cho phổ biến các tài liệu này trong tinh thần học hỏi. Rất mong nhận được các chỉ giáo cao minh.
I. LỊCH SỬ KITÔ HỌC THỜI GIÁO HỘI SƠ KHAI:
Nếu hiểu Kitô Học như một học lý đã được khai triển đầy đủ về con người và việc làm của Chúa Giê-su Kitô trong khuôn khổ một cái nhìn thần học và triết lý về thế giới, thì Kitô Học ấy chỉ đã được xây dựng dần dần trong diễn trình phát triển của Kitô giáo buổi sơ khai. Nhưng nếu hiểu Kitô Học như những phát biểu nào đó về ý nghĩa của Chúa Kitô cũng như ý nghĩa các biến cố trong đời sống của Người, thì đức tin Kitô giáo, ngay cả đức tin của chính Kitô giáo thời sơ khai kia, không thể nào có được mà không có một Kitô Học. Thực thế, theo nghĩa thứ nhất, Kitô Học luôn luôn tùy thuộc vào một suy tư triết lý của một thời đại nhất định nào đó; nhưng ngay trong nghĩa thứ hai, nó cũng đòi người ta phải vay mượn một số ý niệm và một số tước hiệu nào đó, cũng như phải giả thiết một vài quan điểm liên quan đến mối tương quan giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa thời gian và cánh chung thế trần.
Với một quan điểm như thế, câu hỏi chính liên quan đến Kitô Học buổi đầu Kitô giáo mà các nghiên cứu ngày nay cố gắng giải đáp chính là câu hỏi này: sự nhận thức về Chúa Giê-su lịch sử đã diễn biến nhanh chóng thành đức tin vào Con Thiên Chúa trên trời như thế nào? Ta biết rằng thế giới trong đó Kitô giáo xuất hiện vốn rất quen thuộc với những khuôn mặt cứu thế với các phẩm tính thần linh. Người Do thái chẳng hạn vẫn hằng mong chờ Đấng Thiên Sai hay Con Người; các dân ngoại trong thế giới Hy Lạp vốn tin có những thần linh được gửi từ trời xuống để mạc khải, còn các tôn giáo Đông Phương (Lưỡng Hà, Ba Tư) vốn có lòng tin vào những vị thiên sứ. Cho nên Kitô Học, một cách phát biểu sự gắn bó nội tâm đối với Chúa Giê-su và Phúc Âm của Người, chắc chắn đã phát xuất từ sự liên kết tức khắc khuôn mặt Chúa Giê-su vào các ý niệm ấy, hay từ việc hội nhập vào các ý niệm ấy từ từ qua giòng thời gian. Các học giả phần lớn đều nhất trí ở điểm đó. Tranh luận hay chăng chỉ là vấn đề tìm xem con người của Chúa Giê-su và các biến cố trong cuộc đời của Người đã đóng góp phần đáng kể ra sao vào cái Kitô Học kia. Tranh luận cũng còn trong việc tìm xem các ý niệm trên, tức các ý niệm mà các Kitô hữu vốn đã thừa tự được hoặc các ý niệm họ vay muợn được do ảnh hưởng các kinh nghiệm mới, phần nào thuộc nguồn Do Thái phần nào thuộc nguồn Hy Lạp. Sau cùng, là vấn đề thời điểm nào các ý niệm khác nhau kia đã được Kitô giáo tiếp nhận.
1. Giáo Hội Sơ Khai:
a. CÁC TƯỚC HIỆU VÀ CÁC Ý NIỆM.
Trước nhất là tước hiệu Con Người. Nếu nguyên khởi tước hiệu này, vốn được chính Chúa Giê-su long trọng áp dụng vào chính mình, có ý chỉ về một con người từ trời ngự xuống trên các đám mây, thì việc xưng Chúa Kitô bằng tước hiệu ấy hàm nghĩa lòng mong chờ việc Người “đến” trong vinh quang từ trời (parousia). Nhưng điều ấy giả thiết Người đã ở trên trời rồi (Lc 22:69; Cv 7:56), ngự bên tay phải Thiên Chúa và do đó, việc Người chết đâu có nghĩa là thất bại nữa, mà phải được tiếp nối bằng sự sống lại và tôn lên để ở cùng Thiên Chúa. Như thế việc áp dụng tước hiệu Con Người vào Chúa Giê-su đã đưa lại một giải thích chân thực cho cuộc khổ nạn của Người: Con Người phải bị ‘trao nộp’ vào tay thế gian (Mc 9:31; 10:33; 14:41; Lc 24:7; 1 Cor 11:23). Sự cần thiết ấy đã được phát biểu qua kiểu nói cuộc khổ nạn của Con Người ‘đã được chép’ (Mc 9:12), và kiểu nói đó đã được sử dụng làm chứng cớ Kitô Học dựa trên Cựu Ước. Vì thuật ngữ Con Người đã có một chỗ nhất định trong giòng văn khải huyền của Do Thái, nên việc sử dụng nó trong Kitô giáo cho người ta thấy khả thể có những liên kết với những nhóm vốn tư duy bằng các thuật ngữ cánh chung (tận cùng thế gian, tiền hiện hữu của Con Người). Hình ảnh về Con Người từ lâu vốn có liên hệ với hình ảnh về Đấng Sức Dầu (Messiah) trong Do Thái giáo (Enoch 37:71).
Ý niệm sau sau đó đã thay đổi, và hiệu quả đầy đủ của việc thay đổi này đã được nhìn thấy rất rõ trong Kitô giáo sơ khai. Thực vậy, Đấng Sức Dầu không còn là người thuộc chi họ Đavít với sứ mệnh lên ngôi để thiết lập một vương quốc trường cửu và đầy phúc nữa, nếu Người là đấng sẽ đến như Con Người từ các tầng mây trời; và một miêu tả như trong sứ điệp thiên thần của Lc 1.32 cho ta cái cảm tưởng quá sớm và xem ra không phù hợp với thân phận lịch sử của Chúa Giê-su. Mc 12:35-37 còn có thể coi như một phản kháng chống lại hình ảnh truyền thống về Đấng Sức Dầu: không nên quá nhấn mạnh đến dòng giõi Đavít. Dưới ảnh hưởng cuộc đời lịch sử của Chúa Giê-su, các Kitô hữu tiên khởi đã đạt đến chỗ coi cuộc khổ nạn của Đấng Sức Dầu như là con đường dẫn đến vinh quang của Người (Lc 24:26; CV 3:18...) và quan niệm được rằng điều làm Người trở thành Đấng Sức Dầu chính là việc Người bước vào vinh quang và việc Người sẽ trở lại. Có lẽ có một số trong họ cho rằng Người chỉ trở thành Đấng Sức Dầu khi sống lại {Cv 2:36; 3:13; ở đây, bề ngoài xem ra có yếu tố của một Kitô Học theo hướng ‘thừa nhận’(adoptionist)}. Cái ý niệm về một Đấng Sức Dầu chịu khổ nạn dù có thể có trong Do Thái giáo cũng không thấy có chỗ đứng nào trong Kitô Học trên. Không một tài liệu Kitô giáo nào nhắc đến việc ấy.
Dù được nhắc đến rất ít, nhưng tước hiệu tôi tớ Thiên Chúa phải được coi như một tước hiệu của Chúa Giê-su từ rất lâu. Nó đã được dùng như một công thức nhất định trong các trình thuật sớm nhất (Cv 4:30; Didache 9:10; I Clement 59), và dường như các Kitô hữu quen dùng công thức này trong việc chữa bệnh. Theo Công vụ 3:13 và Mát-thiêu 12:18, và luận đoán từ Hy ngữ là tiếng đã được sử dụng (pais chứ không phải lougos), tước hiệu này có ý chỉ về một dung mạo rất quen thuộc của người tôi tớ đau khổ của Gia-vê trong Isaia 42, và không phải tước hiệu chung chung theo kiểu đã dùng chỉ Đavít trong Lc 1:69. Do đó, nó không nhấn mạnh trước hết đến sự tùng phục, nhưng đến việc được Thiên Chúa chọn để chịu khổ nạn; phẩm giá thực sự của đấng được Thiên Chúa sai đến đã được phát biểu rất rõ trong tước hiệu này. Do đó, tước hiệu này, xét theo nguyên gốc, có thể đã chứa sẵn một giải thích cho mầu nhiệm thập giá cùng một cách như tước hiệu ‘Con Người’ vậy.
![]()
Niềm xác tín về vương quốc đang đến ấy đã nối kết việc Thiên Chúa can thiệp đem lại giải thoát trong quá khứ với việc hoàn tất ơn cứu độ trong tương lai; thời gian hiện tại do đó mang theo mình đặc tính trung điểm (intermediate), và những gì trước đó họ cảm nghiệm trong cuộc đời của Chúa Giê-su đều được giải thích dưới ánh sáng của tương lai.
|
Sau đó người ta cảm thấy không thích tước hiệu ‘Tôi Tớ’ nữa vì nó đem lại cho Chúa Giê-su một vị thế quá thấp, nên người ta đã hiểu tước hiệu này như là ‘Con Thiên Chúa’ (pais cũng có thể có nghĩa là ‘con trẻ’); hiển nhiên điều đó đã được thấy trong lời kinh của Polycarp trong sách Cuộc Tử Đạo của Polycarp 20:2 (ở đây từ ngữ monogenis, con một, đã bổ nghĩa cho pais). Nhưng có lẽ vì khó có thể hiểu đồng nghĩa như thế, nên tước hiệu này mỗi ngày một ít được dùng đi và cuối cùng đã biến mất. Rất có thể tước hiệu Con Thiên Chúa khởi thủy mang theo ý niệm tuyển chọn. Vì Con Thiên Chúa vốn là một tước hiệu dành cho vua tại Phương Đông xưa, có liên hệ đến các thần thoại về nguồn gốc thần linh của vua chúa. Tuy nhiên khi đem áp dụng vào vua chúa Israel, như trong Tv 2:7, thì căn bản thần thoại đã biến đi, nhường chỗ cho ý niệm thừa nhận (adoption); “Con là con ta, hôm nay ta đã sinh ra con”, nghĩa là “kể từ hôm nay, con sẽ là con ta”.
Thánh vịnh này có lẽ đã được giải thích theo ý nghĩa sức dầu trong Do Thái giáo, và sau đó được gán cho ý nghĩa Kitô Học trong Kitô giáo. Trong trường hợp như vậy, giây phút bắt đầu tư cách làm con (sonship) có lẽ là lúc sống lại: như vậy Kitô Học ở đây rõ ràng theo khuynh hướng thừa nhận (adoptionist), theo đó Chúa Giê-su, khi sống ở thế gian, chỉ là một con người, nhưng lúc sống lại đã trở nên Con Thiên Chúa. Sau này, lúc Người chịu phép rửa đã được coi như giây phút Người bắt đầu là Con Thiên Chúa; chứng cớ tốt nhất của việc này là trình thuật cổ xưa nhất về việc Người chịu phép rửa. Đây là một truyền thống được bảo tồn bên ngoài các sách Phúc Âm ta hiện có và chỉ đến với chúng ta qua bản văn Phương tây của Lc 3:22; trong đó, tiếng từ trời nói với Chúa Giê-su chính là câu Tv 2:7 gồm cả chữ ‘hôm nay’ nữa. Nhưng ngay cả bản văn theo qui điển chính thức đi chăng nữa, tức câu ‘Con là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng’, thì vẫn mang theo ý niệm tuyển chọn chứ không hẳn ý niệm sinh ra hoặc giống nhau về bản tính với Thiên Chúa. Cho nên tước hiệu ấy cũng có ý nghĩa ‘thừa nhận’ đặc biệt vì công thức ‘con là con ta’ trong thuật ngữ pháp chế đông phương vốn dùng để nhận ai làm con nuôi (‘con sẽ là con ta’). Và dù sao, ‘Con Thiên Chúa’ trong các văn bản xưa nhất của Kitô giáo chỉ là một thuật ngữ thay thế thuật ngữ Đấng Sức Dầu mà thôi, và quan điểm này chẳng hề suy suyển gì dù trong Cựu Ước, ‘Con Thiên Chúa’ không được dùng để chỉ Đấng Sức Dầu, và như chúng tôi được biết, không dùng trong bất cứ văn chương Do Thái giáo nào.
Bên cạnh những tước hiệu trên, một vài hiện tượng trong sinh hoạt của Giáo Hội sơ khai có thể dùng làm nguồn gốc cho một Kitô Học sớm nhất: dùng tên Giêsu để chữa bệnh; chứng cớ không phải chỉ có trong các trình thuật của Tông Đồ Công Vụ, mà còn trong các bản kinh như trong Cv 4:30 nữa : ‘và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Chúa Giê-su’. Cũng thế, các phép rửa đã được thực hiện nhân danh Chúa Giê-su và các bữa ăn thánh đã được cử hành trong niềm mong chờ Con Người sẽ đến. Tất cả các hiện tượng ấy đều là bằng chứng về một Kitô Học của thời ấy khi các môn đệ và các tín hữu của Chúa Giê-su không nghĩ về vị thầy của mình như một người đã chết và đã đi khỏi, nhưng nhờ việc sống lại của Người mà biết được rằng Người đã được nâng lên ở với Thiên Chúa, và ý thức rõ rằng quyền lực của Người vẫn còn hiện diện cách đầy hiệu quả nơi họ như một bảo đảm rằng họ sẽ được tái hợp với Người trong tương lai. Niềm xác tín về vương quốc đang đến ấy đã nối kết việc Thiên Chúa can thiệp đem lại giải thoát trong quá khứ với việc hoàn tất ơn cứu độ trong tương lai; thời gian hiện tại do đó mang theo mình đặc tính trung điểm (intermediate), và những gì trước đó họ cảm nghiệm trong cuộc đời của Chúa Giê-su đều được giải thích dưới ánh sáng của tương lai. Điều này giải thích tại sao ngay cả những người đã cùng ăn uống với Chúa Giê-su cũng nghĩ về Người dưới ánh sáng của thứ Kitô Học đơn giản này.
b. NGUỒN GỐC TỪ CUỘC SỐNG LỊCH SỬ CỦA ĐỨC GIÊSU:
Ta không còn tránh né được câu hỏi các môn đệ Chúa Giê-su đã nắm được các quan điểm Kitô Học nêu trên vào lúc nào. Muốn trả lời câu hỏi này, thiết tưởng ta cần trả lời câu hỏi khác: chính Chúa Giê-su đã chấp nhận đến mức nào tước hiệu Đấng Sức Dầu? Nếu ta quan niệm rằng các môn đệ Chúa Giê-su không thể làm ngơ câu hỏi liệu Người có phải là Đấng Sức Dầu hay không, và nếu ít nhất cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giê-su khiến người ta phải chú mục đến một chuyển dịch sức dầu, thì điều ấy hẳn phải hàm ý chính Chúa Giê-su đã tự nhận mình là Đấng Sức Dầu và do đó các môn đệ đều nhìn nhận Người như vậy. Hậu quả là các môn đệ hẳn đã nghĩ về con người của Người qua lăng kính chờ mong Đấng Sức Dầu ngay lúc Người còn tại thế; các hoài mong này mang hình thức gì thì ta không rõ, nhưng chắc chắn không nhất thiết chỉ là một thứ quân chủ quốc gia. Ta có thể quả quyết hơn nếu ta biết Chúa Giê-su đã dự ứng ra sao cái kết quả không mấy thành công trong chuyến lên Giêrusalem của Người. Nếu đã dự đoán được điều ấy thì hẳn Người đã liên kết hai ý niệm Sức Dầu và thống khổ lại với nhau như thuật ngữ giá chuộc muôn người trong Mc 10:45, một thuật ngữ hết sức đặc thù và có tính Kitô giáo về hình thức.
Căn bản bên trong giòng tư tưởng Do Thái của thuật ngữ trên có thể tìm thấy nơi Is 53 và 4, Mcb. 6:29 và 17:22. Tuy nhiên ta vẫn không rõ Người đã liên kết các ý niệm đó đến mức nào; việc liên kết này có thể đã không gây được ấn tượng quan trọng nào nơi các môn đệ, vì các ông rất ngạc nhiên khi thấy Người chịu đau khổ và chịu chết. Chúng tôi nhắc đến những điều này chỉ để chứng tỏ rằng hạt giống phát sinh ra tư tưởng Kitô Học có thể đã có trong cuộc đời của Chúa Giê-su. Thêm vào đó, chúng tôi cũng xin nhắc đến mối liên hệ hết sức đặc biệt của các môn đệ đối với vị thầy của họ, một mối liên hệ rất khó so sánh với tình thầy trò theo nghĩa Tây phương. Vì mối liên hệ ấy nói lên sự tôn kính nể sợ của những môn đồ cảm thấy sững sờ trước sự cao cả của một vị thánh đang hiện diện giữa họ nhưng chính vị thánh ấy xét ngay trong thẩm cung bản nhiên lại vẫn là một người xa lạ đối với họ.
Nguồn gốc đích thực phát sinh ra mọi Kitô Học phải được tìm thấy trong các biến cố xẩy ra sau cái chết của Chúa Giê-su. Theo một truyền thống cổ xưa nhất (1 Cor 15:3...; Mc 14:28; Ga 21), niềm xác tín rằng Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết không dựa vào hiện tượng căn mồ trống, điều mà thánh Phao-lô không bao giờ nhắc đến, mà là dựa vào các lần hiện ra của Thầy, đấng mà các môn đệ tin là đã chết. Từ những lần hiện ra ấy, các ông kết luận rằng Chúa Giê-su không nằm vùi trong sự chết, nhưng đã được đưa vào vinh quang của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là giáo huấn của Chúa Giê-su đúng, nước Thiên Chúa quả đang đến, và giai đoạn cuối cùng của thời gian với lời hứa kẻ chết sống lại đã bắt đầu đến cùng với việc sống lại của Chúa Giê-su. Do đó, việc sống lại của Người không phải là một biến cố không có chỗ đứng trong thế giới quan của các môn đệ, ngược lại, nó là hậu quả ‘đúng’ của những điều họ đã cảm nghiệm. Bên trên cái cảm nghiệm ấy, điều kỳ thú và đầy hứa hẹn là việc nhìn nhận rằng mặc dù bề ngoài xem ra như thất bại, Phúc Âm và vương quốc của Chúa Giê-su nay đã được Thiên Chúa xác nhận. Chỉ đến nay, các môn đệ mới cảm thấy tự tin là họ đã hiểu đầy đủ ý nghĩa những việc Chúa Giê-su đã làm, cũng như tầm quan trọng trong con người và định mệnh của Người. Như thế, đức tin vào sự sống lại chính là khởi đầu của mọi Kitô Học. Vì sự thay đổi có tính quyết định đầu tiên trong mối liên hệ của các môn đệ đối với Thầy của họ là ý niệm mạc khải về nước Thiên Chúa, lần đầu tiên tỏ lộ cho ho, nay đã trở thành điều chắc chắn, một sự chắc chắm tóm lược hết những gì đã xẩy đến với họ cũng như hết những gì họ vốn trông chờ, một giải thích cho quá khứ và một hy vọng cho tương lai.
2. Kitô giáo khuynh hướng HyLạp trước thời thánh Phao-lô
a.TÔN THỜ ĐỨC GIÊSU NHƯ ‘CHÚA’.
Sự thay đổi thứ hai trong mối liên hệ chính là việc chuyển hướng nhấn mạnh đến hiện tại hơn là tương lai; một Giáo Hội vốn mong chờ ơn cứu độ nay trở thành một Giáo Hội đã nắm được ơn cứu độ ấy; Con Người, Đấng được chờ mong sẽ đến trong các tầng mây trời, nay, dù niềm chờ mong kia vẫn còn đó, được coi đang hiện diện trong Giáo Hội, đang cai trị Giáo Hội, và đang được tôn thờ trong phụng vụ của Giáo Hội. Mối liên hệ này được diễn tả một cách đặc biệt qua một tước hiệu mới: tước hiệu Chúa, trong Hy ngữ là kyrios, một tước hiệu sau đó đã trở nên hết sức phổ quát trong các Giáo Hội nói tiếng Hy Lạp. Trong các tôn giáo của các xứ lân cận, tước hiệu này từ lâu vốn có nghĩa đặc biệt chỉ tước hiệu thần minh. Tại Ai Cập, từ ‘Chúa’ phần lớn dùng để chỉ vương quyền của thần minh đối với thế giới. Khi dịch Cựu Ước sang tiếng Hy Lạp, các dịch giả người Ai Cập sử dụng tước hiệu kyrios thay thánh danh Yahweh, có thể họ đã nghĩ đến tập tục của người Do Thái thường đọc trại Yahweh thành adonai (Chúa) vì lý do húy kính. Nhưng trong các đoạn văn này, họ lại không chuyển dịch từ adonai như họ vẫn thường làm ở những bản văn khác, nhưng đã thay nó bằng từ kyrios.
Điều ấy cho thấy cái âm của từ này hẳn phải có tầm quan trọng đối với họ vì họ chủ ý nghĩ đến vương quyền thần linh đối với thế giới, như chính Philo đã xác nhận trong De Plantatione 86. Ngược lại, tại Syria, ‘Chúa’ trời là vị thần mà mọi người chúng ta đều là ‘nô bộc’; như thế tước hiệu này liên hệ mật thiết với ý niệm phục mệnh, tôn thờ mà các thần dân phải có đối với ‘Chúa’ của họ. Khi Giáo Hội Kitô thờ phượng ‘Chúa’ của mình dĩ nhiên họ không nghĩ ngay đến vấn đề vương quyền đối với trần gian cho bằng đến nghĩa vụ thờ kính tôn giáo, nhưng sau đó khi đọc các đoạn văn Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp, trong đó ‘Chúa’ của họ được gán cho tước hiệu kyrios, dần dần họ đã liên kết được ý nghĩa vũ trụ học với ý nghĩa thờ kính kia. Đàng khác, việc sử dụng tước hiệu ‘Chúa’ trong việc thờ kính hoàng đế xem ra có liên hệ đến tập quán của người Ai Cập. Dù sao, nếu không phải là nguyên nhân, thì tập quán của người Ai Cập quen gọi vị vua đang cai trị mình là ‘Chúa’ có nhiều điểm tương đồng với tập quán của Kitô giáo. Thực thế, trong cả hai trường hợp, một con người lịch sử đã được tôn vinh là Thiên Chúa qua việc sử dụng tước hiệu này. Chỉ sau khi ý thức được nét tương tự đó, Kitô giáo mới ráng làm rõ nghĩa việc sử dụng tước hiệu này.
Người ta có thể hỏi liệu việc tôn thờ Chúa Giê-su như ‘Chúa’ có liên hệ gì đến một dạng huyền nhiệm học (mysticism) nào đó trước thời thánh Phao-lô hay không. Ta biết thánh Phao-lô vốn dùng kiểu nói ‘trong Chúa’ (như Rm 16) trong đó ‘ở trong Chúa’ chỉ có nghĩa là ‘thành một Kitô hữu’, một công thức vốn đã thịnh hành trước thời thánh nhân. Như vậy điều ấy có nghĩa là bất cứ ai tham dự vào việc thờ phượng Kitô giáo đều cũng trở thành chi thể trong huyền thể Chúa Kitô, và do đó đều ở ‘trong Chúa’. Một thứ huyền nhiệm học có tính tế tự cũng có thể đã phát sinh với ý niệm cho rằng phép rửa tội có nghĩa là được an táng và được sống lại từ cõi chết với Chúa Kitô, một ý niệm mà trong Rm 6:3,4, rõ ràng thánh Phao-lô cho là rất quen thuộc với Giáo Hội tại thành Rôma, nhưng không hẳn quen thuộc với chính bản thân Ngài.
b. NGUỒN GỐC VIỆC THỜ PHƯỢNG ĐỨC KITÔ.
Như thế, không kể các ý niệm đặc biệt đối với thánh Phao-lô, ta có thể lần trở lại các ý niệm khác nhau, tuy không luôn luôn nhất quán với nhau, nhưng đã diễn tả được tầm quan trọng của Chúa Kitô như đấng đang hiện diện ở đây và lúc này: đó là việc thờ phượng ‘Chúa’ với nghĩa tế tự, và ở một vài nơi khác, việc thờ phượng ‘con chiên’, việc cử hành cuộc thống khổ và việc sống lại của Người như những biến cố trong đời một vị thần linh, trong phép rửa và dĩ nhiên trong Thánh Thể nữa, và huyền nhiệm học có tính tế tự về việc ‘ở trong Chúa’. Theo các ý niệm đã được trình bày trên đây (nói về mạc khải), người ta không chờ đợi Chúa Kitô có đầy đủ vinh quang Thiên Chúa trước thế mạt; các quan điểm nhắc đến ở đây trình bày Chúa Kitô như Chúa của Giáo Hội, được tôn thờ như Thiên Chúa, ngay trong thời gian hiện tại. Câu tuyên xưng ‘Chúa Giê-su là Chúa’ (1 Cor 12:3; Rm 10:9; Pl. 2:11) có nghĩa là nhân danh Chúa Giê-su, là ‘tên trọng hơn hết các tên’ tức tước hiệu ‘Chúa’, mọi đầu gối đều phải bái qùy (kể cả các thiên thần), và do đó tước hiệu Chúa có ngay trong lúc này.
4. Ngộ Đạo Thuyết
Nơi thánh Phao-lô, sự kiện thuộc đời sống trần gian của Chúa Giê-su đã được đưa vào huyền thoại Kitô (Christ myth), dù chưa đầy đủ trong chi tiết; ngay trước thời thánh Phao-lô, việc thực hành bí tích vốn tương tự như việc thực hành mầu nhiệm, đã có nhiều liên hệ với huyền thoại, dù không che mất bản chất yếu tính của Phúc Âm Kitô giáo. Cả hai diễn trình này đều rất tự nhiên đối với thời đại và môi trường ấy đến nỗi đã trở thành những nét yếu tính của Kitô giáo. Đó là điều đã xẩy ra trong Kitô Học của ngộ đạo thuyết (xem phần II, dưới đây). Thuyết nhị nguyên xác thân và thần khí trong thánh Phao-lô đã trở thành thuyết nhị nguyên có tính vũ trụ học căn để, là thuyết không thể khoan nhượng ý niệm cho rằng Thiên Chúa có thể trở nên xác thân được, và đo đó đã làm loãng câu chuyện khổ nạn trong huyễn tượng thuyết (docetism). 5. Kitô Học trong Giáo Hội sau thánh Phao-lô
a. BÍ MẬT SỨC DẦU, SINH BỞI NGƯỜI NỮ ĐỒNG TRINH, XUỐNG NGỤC TỔ TÔNG.
Phần lớn hơn trong thế giới Kitô giáo từng nhiệm nhặt đi theo truyền thống liên quan đến Chúa Giê-su cảm thấy cần phải giải thích các chi tiết trong đời sống Chúa Kitô theo ý nghĩa Kitô Học, và do đó liên kết huyền thoại và lịch sử lại với nhau theo một cách khác với thánh Phao-lô vì thánh nhân từ khước cái ‘biết theo xác thịt’ (2Cor 5:16). Trong Maccô, ta đã thấy một Kitô Học rõ rệt; tuy nhiên, nó mới chỉ là cái khung, cái bố cục với một vài giải thích đó đây các chất liệu truyền thống; do đó, ta không rõ liệu ngài có coi phép rửa của Chúa Giê-su theo nghĩa ‘chấp nhận’ (adoptionist), nghĩa là Chúa Giê-su được chấp nhận làm Con Thiên Chúa trong biến cố này, nói cách khác, Người đến sông Gióc-đăng để chịu phép rửa trong tư cách một hữu thể nhân loại đơn thuần, hay theo nghĩa biến cố phép rửa, giống như biến cố hiển dung (transfiguration), là dịp để Chúa Giê-su mạc khải hay ‘hiển linh’ địa vị Con Thiên Chúa của mình. Nhưng quả là đã có một Kitô Học tiềm ẩn trong lý thuyết về bí mật sức dầu (messianic secret): theo quan điểm này, Chúa Giê-su giữ bí mật về sự kiện Người là Đấng Sức Dầu và cấm cả quỉ lẫn các môn đệ không được nói đến bí mật ấy. Lý thuyết này có mục đích giải thích tại sao dân chúng lại có thể đóng đinh Đấng Sức Dầu của họ.
Matthiêu và Luca đều nhắc đến việc sinh bởi người nữ đồng trinh (virgin birth); trong Mt 1:18-25, điều ấy được giả định; còn trong Lc 1: 26-28, nó được miêu tả một cách tế nhị và kín đáo. Ở đây ta được dẫn vào một ý niệm từng được khai triển rất lâu trong lịch sử tôn giáo; giai đoạn đầu của nó tìm thấy trong các truyện kể việc thần thánh sinh ra các vua chúa Ai Cập và các vua chúa khác, và hình thức sau cùng tìm thấy nơi Philo với quan niệm cho rằng Thiên Chúa chỉ có thể giao tiếp với linh hồn sau khi đã phục hồi nó trở lại tình trạng trinh trong (De Cherubim 48-52) và nơi thánh Phao-lô với ý niệm Isaac được sinh bởi Thần Khí chứ không bởi xác thịt (Gal 4:23, 29). Như thế, phép lạ mạc khải đã được miêu tả bằng cách đưa vào lịch sử một chủ đề huyền thoại từng đã có trong Do Thái giáo. Tuy nhiên, ở đây, ta thấy có sự dằng co giữa chủ đề này và truyền thống về thánh Giuse như cha của Chúa Giê-su, vốn được hai Phúc Âm Matthiêu và Luca lưu giữ khi nói đến gia phả của Người.
Một dằng co tương tự cũng có trong trường hợp xuống ngục tổ tông, nguyên khởi vốn là một chủ để huyền thoại. Việc này được nhắc đến trong thư thứ nhất của thánh Phê-rô (1 Pr 3:19; 4:6) coi như sứ mệnh của Chúa Kitô giữa những người đã chết. Trong Mt 27:53, không thấy nhắc đến việc này. Điều ấy cũng đúng đối với việc sống lại: thay vì kể lại việc Chúa Kitô hiện ra, việc mà thánh Phao-lô rất quen thuộc (1 Cor 15:5), Phúc Âm thánh Maccô chỉ nhắc đến căn mồ trống.
b. PHÚC ÂM GIOAN.
Huyền thoại và lịch sử chỉ trở nên một bức tranh gắn bó với Phúc Âm Gioan. Ở đây ta thấy một truyền thống gồm những chất liệu có nguồn gốc và giá trị rất khác nhau đã được soi sáng để trở thành một Kitô Học hết sức rõ ràng. Yếu tố quyết định chính là sự thay đổi trong việc nhấn mạnh. Việc giáng lâm của Chúa Kitô trong tư cách Đấng Sức Dầu không còn là biến cố sắp xẩy ra nữa, mà nó đã xẩy ra rồi; cuộc sống trần gian của Chúa Giê-su đã khởi đầu cho việc mạc khải vĩ đại của Thiên Chúa, và việc mạc khải này còn tiếp tục trong Giáo Hội; Chúa Giê-su được gọi là Con Người, vì Người đã từ trời mà đến (3:13); việc xuất hiện của Người chính là để phán xét thế gian và đem sự sống đến cho những ai thuộc về Người (3:18; 5:24); các biến cố vào buổi thế mạt chỉ là việc hoàn tất sau cùng (5:28). Như thế, cuộc sống trần gian của Chúa Giê-su đã được coi như việc mạc khải vĩ đại mọi sức mạnh vốn đúng ra chỉ thuộc tương lai (7:38) và do đó chỉ được hứa ban vào Diễn Từ Chia Tay (các chương 14-16). Bởi thế các hành động của Chúa Giê-su mà truyền thống đã ghi lại chính là các mạc khải về Chúa Kitô hiển dương: nước sự sống, bánh sự sống, ánh sáng cho kẻ mù, sự sống cho kẻ chết, và trên hết, mạc khải về Thiên Chúa vô hình (17:3); đó là điều Chúa Giê-su đem tới.
Bản thể của cứu độ được miêu tả bằng những thuật ngữ mượn từ tổng hợp của thời đại: từ các trước tác Huyền bí học, ‘ánh sáng’ và ‘sự sống’ chỉ thế giới bên trên; triết học đương thời miêu tả vương quốc Thần Khí như là ‘sự thật’; ‘đường’ là kiểu nói của ngộ đạo thuyết; và, như trên đã trình bày, là ý niệm sở hữu (appropriation) được ơn cứu độ qua thị kiến (nắm được sự sống, Ga 3:36; nắm được vinh quang, 1:14, 11:40; nắm được Chúa Giê-su, 14:9). Chúa Giê-su không đem hoặc không ban các điều ấy như là những tặng phẩm, trái lại Người hiện thân (embodies) chúng: ‘Ta là’ ánh sáng v.v... Không có Người, ta không có chúng. Do đó, Kitô Học đã trở thành vấn đề chủ chốt cho toàn bộ cuốn sách: trong Chúa Giê-su – nhưng không phải là Chúa Giê-su trần thế, mà là Chúa Kitô hiển dương, đấng ban mình trong Chúa Thánh Thần, 16:7 – các Kitô hữu chiếm hữu Thiên Chúa. Các lời nói và việc làm của Người là các hành động của Thiên Chúa, được thông truyền qua Người như qua máng chuyển (5: 19-30...). Cho nên, có thể diễn tả bản nhiên Chúa Giê-su bằng căn tính Thiên Chúa như khi dùng hạn từ “Thiên Chúa” để miêu tả về Người (20:28).
![]()
Nguồn gốc đích thực phát sinh ra mọi Kitô Học phải được tìm thấy trong các biến cố xẩy ra sau cái chết của Chúa Giê-su. Như thế, đức tin vào sự sống lại chính là khởi đầu của mọi Kitô Học.
![]() |
Hạn từ ‘tình yêu’ nói về Thiên Chúa và ‘Chúa Con’ cũng không phải chỉ có nghĩa tinh thần, nó chỉ việc Thiên Chúa thông ban mình Người cho Chúa Giê-su. Khi sử dụng từ ngữ này cũng như các thuật ngữ ‘trong tôi’, ‘trong các ngươi’, Phúc Âm Gioan cho ta một đặc điểm hết sức rõ nét đó là: mối liên hệ giữa các tín hữu với Chúa Giê-su tương đương với mối liên hệ giữa Người và Thiên Chúa. Sự tương đương này, nói đúng ra, hẳn phải xa lạ với kinh nghiệm Kitô giáo; do đó ở đây người ta lại hoài nghi rằng đó là do ảnh hưởng của huyền thoại Ba Tư về Người Đầu Hết, trong đó, người được chuộc tội có liên hệ mật thiết với đấng chuộc mình, và chính đấng chuộc tội cũng được chuộc tội.
Huyền nhiệm học của thánh Gioan cuối cùng dẫn đến ý niệm cho rằng tín hữu bước vào mối liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa (14:23; 16:27). Ý niệm này cũng phát xuất từ một nguồn như trên. Và khi Chúa Giê-su dùng thuật ngữ ‘Đấng đã sai tôi” như một tước hiệu chỉ về Thiên Chúa, người ta không thể không nhớ đến đấng chuộc tội được Thiên Chúa sai đến trong thần thoại trên. Đối với thánh Gioan, niềm xác tín rằng Chúa Giê-su đã được Thiên Chúa sai đến là một xác tín rất mạnh; ngoài tước hiệu ‘Con Người’ ra, thánh nhân còn sử dụng nhiều tước hiệu khác nữa, và các tước hiệu này cũng tìm thấy trong các nguồn khác: ‘Chiên Thiên Chúa’, “Chúa’, ‘Đấng Sức Dầu’, ‘Đấng Thánh của Thiên Chúa’, ‘Con’, ‘Đấng Cứu Thế’. Khi thánh nhân nói đến Ngôi Lời (1: 1-18), ngài đã giả thiết trọn mối liên tưởng có tính vũ trụ học của huyền thoại, mà chúng ta từng biết qua thánh Phao-lô; tuy nhiên thánh nhân không sử dụng từ ngữ này theo nghĩa vũ trụ luận của Philo, hoặc để trình bày lịch sử cứu độ như các nhà hộ giáo thuở ban đầu, nhưng chỉ muốn giới thiệu Chúa Giê-su như dụng cụ của Thiên Chúa trong vũ trụ.
Câu ‘Ngôi Lời đã trở nên xác phàm’ có mục đích để nối kết huyền thoại với lịch sử: căn bản của vũ trụ đả trở thành con người lịch sử. Trong câu truyện do thánh Gioan tường thuật, hậu cảnh huyền thoại đã được duy trì: Chúa Giê-su hành động như một nhân vật siêu nhiên, không lay chuyển về xúc cảm, được bảo vệ khỏi bất cứ ảnh hưởng nguy hiểm nào từ con người, làm chủ chính vận mệnh mình. Cho nên, không ai biết Người là ai hoặc hiểu được Người; những hiểu lầm đối với các lời nói và hành động của Người cho thấy đặc điểm thần linh của chúng; nhưng chúng cũng cho thấy thế gian đã có thể không nhận ra mạc khải của Thiên Chúa như thế nào, nên đã đem người đưa mạc khải ấy đến thập giá ra sao; và do đó, chúng tạo nên một tương đương với chủ đề huyền thoại về dấu ẩn (concealment).
c. CÁC HÌNH ẢNH VÀ TƯỚC HIỆU CỦA ĐỨC KITÔ TRONG CÁC TRƯỚC TÁC SƠ KHAI KHÁC CỦA KITÔ GIÁO
Kitô Học trong các trước tác khác của kitô giáo thời sơ khai thì rất khác nhau và không có hệ thống chi cả. Hình ảnh thống nhất và được quan niệm cách hoàn bị nhất là hình ảnh trong Thư gửi tín hữu Do Thái trong đó Chúa Kitô được coi là Thầy cả Thượng phẩm từ trời sai tới (8:2), đấng nhờ máu mình đã đổ ra, mà bước vào được cung thánh trên trời – một lối giải thích khá giống với lý thuyết của Philo về Ngôi Lời, kể cả lối diễn tả. Không thấy nhắc gì đến việc sống lại, nhưng các chi tiết khác về Chúa Giê-su như đã có trong truyền thống đều được nhắc đến (2:18; 4:15; 5:7; 13:12). Rồi còn hình ảnh khác về Con Người thiên giới trong Khải Huyền, được thấy trong thị kiến và khá giống hình ảnh trong thờ phượng; ngoài ra, cũng trong sách này còn có hình ảnh một trẻ sơ sinh thần thánh bị con rồng tấn công, một hình ảnh chỉ có thể giải thích trên căn bản một huyền thoại ngoài Kitô giáo (12:1-6), và thị kiến người kị mã sức dầu (messianic horseman) vốn đã có căn bản trong các tư liệu Do Thái (19: 11-16), đến để phán xét, và được gọi là ‘Đấng Trung chính và Chân Thật’, ‘Lời Thiên Chúa’, và ‘Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa’. Tước hiệu sau cùng cũng tìm thấy trong 1 Tt 6:15 và là bằng chứng cho thấy việc áp dụng ngôn từ tôn sùng vua chúa Hy Lạp vào Chúa Kitô (Tt 2:13: ơn phúc cứu độ, dung mạo hiển dương, lòng nhân từ, dạ khoan nhân, những ngôn từ rất đặc trưng trong thư 1 & 2 gửi Titô. Ở đây cũng như trong Luca 2:11; Gioan 4:42; 1 Ga 4:14 (‘đấng cứu thế’), Cv 5:31; 13:23; Pl 3:20 và 2 Pr, Người được gán tước hiệu ‘Cứu thế’ (soter).
Trong phần lớn các đoạn văn, từ đó không hẳn có nghĩa như đấng đem đến sự sống mà như Thiên Chúa ‘mạc khải’ (epiphanes) đem đến một thời đại mới đầy chúc phúc (coi Titô 2:13). Ở đây cũng như trong Ignatius thành Antioch, Chúa Kitô nay được miêu tả như Thiên Chúa với đầy đủ nghĩa của chữ này, theo nghĩa tôn giáo khải huyền của Phúc Âm Gioan, đến độ Ignatius còn đề cập đến cả máu Thiên Chúa và nỗi thống khổ của Người (Thư Gửi Tin Hữu Ephêsô 1:1; Thư Gửi Tín Hữu Rôma 6:3). Ngài liên kết điều này với một huyền nhiệm học đông phương về Giáo Hội, như đã thấy trong Thư Gửi Tín hữu Ephêsô, cũng như nhiều nơi khác trong Tân Ước: Chúa Kitô là đầu thân thể sẽ tràn đầy khắp thế gian; Giáo Hội (ecclesia) có phạm vi vũ trụ luận.
Các bản văn khác ghi chép Kitô Học các thế kỷ đầu của Kitô giáo không có chi mới lạ trong việc sử dụng những thuật ngữ cổ truyền mà có lúc đã gần như tạo thành một phần của việc tuyên xưng đức tin (Eph 4:5; 1 Tm 2:5: đấng trung gian; 1 Pr 1:19: con chiên) hay chỉ có một ý nghĩa Kitô Học qua loa không được khai triển đầy đủ. Nhưng Kitô Học buổi sơ khai luôn luôn mang dáng dấp một dằng co giữa huyền thoại và lịch sử. Đây không những là chủ đề để khai triển học thuyết Kitô Học sau này, mà còn là vấn đề sẽ còn mãi và không thể tránh được; vì Kitô giáo thừa nhận cả bản chất siêu nhiên và phi thời gian của mạc khải lẫn bản chất lịch sử, lệ thuộc thời gian trong việc thể hiện mạc khải ấy trong trần gian.
Theo Martin Dibelius Twentieth Century Theology in the Making
do Jaroslav Pelikan chủ biên Bản tiếng Anh của R.A. Wilson Fontana
do Jaroslav Pelikan chủ biên Bản tiếng Anh của R.A. Wilson Fontana
Vinc. Vũ Văn An
Wednesday, September 7, 2011
Triết Học Nhập Môn thuyết trình bài 3
SỰ XUẤT HIỆN
CỦA TRIẾT HỌC
TRONG LỊCH SỬ
NHÂN LOẠI
CÁC BƯỚC TIẾN HÓA CỦA NHÂN LOẠI
ĐỈNH ĐIỂM CỦA TIẾN HÓA
CÁC SẤM NGÔN
CÁC THI SĨ
CÁC NGƯỜI HÁT RONG
TÔN GIÁO
TÔN GIÁO RẤT GẦN VỚI TRIẾT HỌC
LƯƠNG TRI CON NGƯỜI
Ở VÙNG TRUNG ĐÔNG
VĂN MINH BABYLON
HÌNH KHÔI PHỤC VƯỜN TREO Ở BABYLON
VĂN MINH AI-CẬP
CÓ LIÊN HỆ VỚI LỊCH SỬ ISRAEL
TẠO DỰNG CON NGƯỜI
VÙNG TRUNG HOA
CHỦ THUYẾT VÔ VI
Triết Học xuất hiện ở
ĐẠO BRAHMA (Ấn giáo)
THÍCH CA MÂU NI (559 ?- ? Tcn)
PDF file download : http://www.mediafire.com/?vv9oowv32g3c2gc
CỦA TRIẾT HỌC
Tuesday, September 6, 2011
Câu Hỏi Kito Học năm II
Đọc kỹ bản văn sau đây:
Khi đức Giê-su được 5 tuổi, ngài chơi đùa trên miếng đất hẹp ở một dòng suối tuôn chảy. Ngài đổ nước vào trong những cái hồ, và ngay lập tức chúng được sạch, và Ngài đã ra lệnh ấy chỉ với một lời. Rồi Ngài làm ra đất sét, Ngài nặn 12 con chim sẻ từ đất ấy. Đó là ngày Sa-bát khi Ngài làm những điều ấy. Tuy nhiên cũng có nhiều trẻ em chơi với Ngài.
Một người Do-thái thấy điều Đức Giê-su làm trong khi chơi đùa vào ngày Sa-bát. Ngay lập tức ông ta ra đi và kể chuyện lại cho cha của Đức Giê-su, ông Giuse: “xem kìa, con trai của ông bên dòng suối và nó lấy đất sét nặn thành hình 12 chim sẻ và vi phạm ngày Sa-bát?”
Giuse đi đến chỗ đó và khi thấy Ngài, ông la lên: “tại sao con làm những điều không được phép trong ngày Sa-bát?”
Tuy nhiên, Đức Giê-su vỗ tay và lớn tiếng với những con chim sẻ: “Bay đi và hãy nhớ đến ta vì các ngươi đã được sống.” Lũ chim sẻ hót lớn và bay đi.
Yêu cầu: dưới nhãn quan Kito học hiện đại, bạn hãy phê bình đoạn văn ở trên trong một mặt giấy A4. Đây là đoạn văn đến từ tài liệu mang tên là Tin Mừng Theo Thánh Tô-ma (được viết vào khoảng thế kỷ thứ 2)
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA THÁNH BONAVENTURA
(Theo tác phẩm “Hành Trình của con người lên tới Thiên Chúa”
Thánh Bonaventura được mệnh danh là nhà thần bí hơn là nhà triết học, vì các tác phẩm của ngài thiên về những cảm nghiệm thần học “thần bí” thiêng liêng. Nhưng theo nhận định của một số học giả thì ngài cũng là một bậc thầy trong lãnh vực triết học. Tác giả Gisol nhận xét: “Bonaventura đã vận dụng tới những nguồn mạch triết học đúng nghĩa để xây dựng tổng hợp lý thuyết của ngài…Tính thống nhất của học thuyết thánh Bonaventura là tính thống nhất của một trí khôn lôi kéo về mình những luận đề thuộc những nguồn gốc đôi khi khác nhau song nối kết với nhau bởi những mối liên hệ họ hàng sâu xa chứ không phải là tính thống nhất của một hệ thống được xây dựng một cách biện chứng từ những nguyên lý đã được đặt làm nền tảng” (Etienne Gilson, La Philosophie au Moyen – Age Payot, Paris 1962, Lm Nguyễn Hồng Giáo phiên dịch, tr 2). Ngài đã vận dụng tài tình các tư tưởng triết học trước thời của mình như, Plato, Aristotle, Augustine, Tân Plato… vào trong các các phẩm thần học của ngài. Vì thế, ngài xứng danh là người có công đầu trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển trường phái triết - thần Phan sinh. Đây là một trường phái có chỗ đứng hết sức quan trọng trong Giáo hội và thế giới, song song với trường phái Tôma trong thời kỳ Kinh viện và trong lịch sử Giáo Hội về sau.
Vì vậy, việc tìm hiểu những tư tưởng triết học của Bonavetura là việc làm hết sức cần thiết. Nó sẽ giúp chúng ta có một sự hiểu biết về ngài và tư tưởng của ngài trong “lâu đài” triết - thần Kinh viện nói riêng và trong lịch sử triết học và thần học nhân loại nói chung. Việc làm này giúp chúng ta có thêm những hành trang quí báu trong hành trình tiến về với Đấng vô biên.
I. SIÊU HÌNH HỌC CỦA BONAVENTURA.
Thực tại của thánh Bonaventura là Mầu Nhiệm Nhập Thể. Đối với Bonaventura, thì mầu nhiệm Sáng tạo và Nhập thể như hai mặt của một đồng tiền mà thôi. Sáng tạo là cuộc nhập thể thứ nhất, Thiên Chúa thông ban chính mình cho thụ tạo; và cuộc nhập thể thứ hai là Thiên Chúa ban chính Con Một của mình cho thế giới, để cứu độ thế giới. Vì thế dấu vết của Thực Tại Siêu Việt hiện hữu tràn lan trong thế giới thụ tạo.
1. Dấu tích của Thiên Chúa trong thế giới khả giác.
Thánh Bonaventure chịu ảnh hưởng tư tưởng của Augustine về tạo dựng đã qua niện: “Thế giới là công tình tạo dựng của Thiên Chúa…vì thế thụ tạo luôn mang dấu vết của Thiên Chúa” . Bằng con mắt thể lý, chúng ta sẽ nhận diện dấu vết của Thiên Chúa trong vũ trụ. Để vũ trụ trở thành phương tiện nhận biết thực tại, chúng ta “cần phải đi qua các dấu tích vốn là vật chất, tạm thời và bên ngoài chúng ta” ( Bonaventura, Hành trình của con người lên tới Thiên Chúa, bản dịch của Nguyễn Đoàn Tân, Học viện Phanxicô 2007, tr 16). Khi đó, chúng ta nhận ra Thiên Chúa nhờ các dấu vết Người đã để lại trong các sự vật, đó là những chứng cớ về sự hiện hữu của Người mà người ta rút ra từ việc suy ngắm thế giới khả giác.
Theo quan đểm của Bonaventura, vũ trụ là một cuốn phúc âm thứ hai, qua đó chúng ta: “Trực tiếp nhận ra Thiên Chúa hiện diện dưới chuyển động, dưới trật tự, sự hoà hợp, vẻ đẹp và sự xếp đặt của vạn vật…đối với một tâm trí thanh sạch, mỗi sự vật và mỗi khía cạnh của mỗi sự vật đều tiết lộ sự hiện diện sâu kín của Đấng làm ra nó” (Etienne Gilson, Sđd, tr 3).
Tóm lại, khi suy ngắm thế giới khả giác chúng ta có thể tìm thấy ở đó dấu vết của Thiên Chúa ở ngoài chúng ta, bởi vì tất cả mọi đặc tính của sự vật đòi hỏi phải có một nguyên nhân đứng sau nó. Các dấu vết này thể hiện trong sự thống nhất, chân lý và sự tốt lành của sự vật (x. Bonaventura, Sđd, tr 31)
2. Hình ảnh của Thiên Chúa trong con người.
Thánh Bonaventura mời gọi chúng ta quay về với tâm hồn của chúng ta, ở đó chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng hình ảnh của Thiên Chúa cách rõ ràng. Ngài nói: “Chúng ta phải tiến vào trong thực tại nội tâm chúng ta, tức là hình ảnh Thiên Chúa một hình ảnh vĩnh cửu, thiêng liêng và bên trong chúng ta” (Bonaventura, Sđd, tr 14); và chính “hình ảnh này sẽ giúp chúng ta tiến sâu vào chân lý của Thiên Chúa” (Bonaventura, Sđd, tr 16).
Nếu những chứng cớ dựa vào thế giới khả giác mà thánh Bonaventura cung cấp cho chúng ta như những sự hiển nhiên chói loà mà ta có thể nhận thấy các dấu vết của Người, thì khi trở về với tâm hồn, tâm trí của chúng ta cung cấp cho ta điều quan trọng hơn là chính hình ảnh của Thiên Chúa.
Khi tìm kiếm Chúa trong linh hồn chúng ta, chúng ta qui hướng về chính Người. Người không chỉ là nguyên nhân mà còn là đối tượng của linh hồn chúng ta. Trí năng của chúng ta chỉ hiểu được các đối tượng của nó nhờ ý tưởng về một Hữu Thể tinh tuyền, toàn vẹn và tuyệt đối. Chính nhờ sự hiện diện của ý tưởng về hoàn hảo và tuyệt đối trong ta mà ta có thể biết được cái đặc thù là bất toàn và tương đối.
Vậy với khả năng nhận biết của lý trí qua suy tư và tưởng tượng, chúng ta có thể nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta.
3. Vượt qua thế giới khả giác tiến đến Beyond (Siêu việt) để biết Danh Thánh Thiên Chúa.
Đây là giai đoạn cuối cùng chúng ta có thể nhận diện sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thánh Bonavetura nói: “Chúng ta phải tiến lên cùng cái vĩnh cửu nhất, thiêng liêng nhất và ở trên chúng ta bằng cách nâng con mắt của chúng ta lên tới nguyên lý tiên khởi. Việc làm này sẽ đưa chúng ta lên tới niềm hoan lạc được biết Thiên Chúa và kính sợ sự cao cả của Người” (Bonaventura, Sđd, tr 16).
Theo thánh Augustine, “trong chúng ta có …ánh sáng của lý trí vĩnh cửu, trong ánh sáng này ta thấy được chân lý bất di bất dịch” (Entienne Gilson, Sđd, tr 6). Thánh Bonaventura đi theo quan điểm này, ngài cho rằng nhờ sự chiếu sáng của vĩnh cửu và ân sủng, chúng ta mới có thể nhận ra Danh Thánh của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu Kitô Trung gian. Đó là Hiện Hữu tuyệt đối và Sự Thiện Hảo tuyệt đối. Ở cấp bậc này, chỉ cần phải dành cho lời nói và chữ viết phần ít thôi, nhưng cần dành tất cả cho ân huệ Thiên Chúa nghĩa là cho Chúa Thánh Thần soi sáng. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa ở trên chúng ta là biết Danh Thánh của Người hay “Bản sao” của Người.
Tóm lại, dưới nhãn quan của thuyết Duy thực, Bonaventura đã đi đến tóm kết siêu hình học của mình, bằng cách đề cập đến sự tương quan giữa cái ta thấy thay đổi và cái đứng bên trong làm cho biến đổi (x. số 3).
II. TRI THỨC LUẬN CỦA BONAVENTURA
Theo quan điểm của thánh Bonaventura thì con người đến từ thực tại và luôn khao khát trở về với Thực Tại vĩnh cửu, đó là Hạnh Phúc và Thiện Hảo. Trong cuốn “Hành trình của con người lên tới Thiên Chúa” , thánh Bonaventura vạch ra cho chúng ta năm bước đi như là “các bậc thang” và là “kim chỉ nam” , giúp con người vươn lên tới Thực Tại siêu việt đó.
1. Khao khát tìm kiếm Thiên Chúa.
Con người khao khát, khắc khoải tìm kiếm Thiên Chúa, lòng khao khát này “vượt trên mọi hiểu biết”, thúc đẩy con người vượt ra khỏi chính mình để tìm kiếm Thiên Chúa. Đây cũng là kinh nghiệm của thánh Bônaventura: “Được thúc đẩy bởi gương sáng của Phanxicô, tôi đã hằng ao ước sự bình an này” ( Bonaventura, Sđd, lời ngỏ).
Trong bước khởi đầu này việc cầu nguyện sẽ giúp con người hướng tâm hồn mình lên, để tìm kiếm Hạnh Phúc vĩnh cửu: “Cầu nguyện là người mẹ và là nguồn mạch phát xuất động tác đi lên của tâm hồn hướng thượng” ( Bonaventura, Sđd, tr 15). Ở bậc này, thụ tạo xung quanh trở thành tấm gương phản ánh những điều chúng ta tìm kiếm.
2. Vũ trụ là tấm gương.
Với lòng khao khát, ước muốn Thiên Chúa thì vũ trụ, con người và vạn vật trở nên tấm gương. Khi nhìn vào tấm gương này, chúng ta thấy chính mình và nhìn qua tấm gương chúng ta thấy thế giới khác với chính mình: “Thật thế, trí năng phải cậy tới nhận thức khả giác để biết tất cả những gì xa lạ với nó, nghĩa là biết tất cả những gì không phải là nó” ( Bonaventura, Sđd, tr 15).
Kế tiếp, thánh Bonaventura sử dụng thuyết Lan tỏa để giải thích dấu tích của Thiên Chúa trong vũ trụ. Theo đó, thế giới thụ tạo như tấm gương phản ánh dấu tích của Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, chỉ đường cho chúng ta tìm kiếm Ngài.
3. Phương tiện nhìn thấy: giác quan.
Để nhìn thấy các dấu tích của Thiên Chúa, chúng ta dùng đến giác quan của mình: “Hãy nhìn cho kỹ, bạn sẽ thấy Thiên Chúa gần bạn biết bao” . Nhờ các giác quan thể lý, qua các hoạt động “phát sinh”, “khóai cảm” và “phán đoán” , các dấu vết của Thiên Chúa trong vũ trụ đi vào trong ý thức của chúng ta. Ngài nói: “Theo cách đó toàn bộ thế giới khả giác đi vào trong tâm linh con người” ( Bonaventura, Sđd, tr 27).
Thánh Bonaventura trở về với tri thức luận của Platon bằng cách vượt qua thế giới khả giác đưa chúng ta đến chân lý khả niện: “Chúng ta nhờ tới một ánh sáng nội tâm, ánh sáng này tự biểu lộ ra trong các nguyên lý của các khoa học và của chân lý tự nhiên, vốn là bẩm sinh đối với con người. Các thứ đó đều thuộc về một bậc nhận thức cao hơn, ở đó cảm năng không còn chỗ nữa” (Etienne Gilson, Sđd, tr 5). Tuy nhiên, do hậu quả của tội lỗi, tâm trí con người u mê và đầy dục dọng nên thực tại, dấu vết của Thiên Chúa bị lu mờ. Con người cần thiết phải trãi qua việc thanh luyện. Trong khi thanh luyện, nhờ ánh sáng vĩnh cửu soi sáng, các giác quan thể lý biến đổi thành các giác quan tinh thần và “chúng ta được đưa dẫn tới tấm gương của tâm hồn, trong đó các thực tại thần linh sáng ngời” ( Bonaventura, Sđd, tr 32).
4. Chiêm niệm về Thiên Chúa.
Cùng với ân sủng của Thiên Chúa ban cho thân thể ta và bằng con mắt đã thanh tẩy qua các nhân đức Tin-Cậy-Mến, chúng ta suy niệm về Thiên Chúa. Khi suy niện bằng các giác quan của tinh thần, “linh hồn ta có thể thấy, nghe, ngửi, nếm và ôn lấy Đức Lang quân” ( Bonaventura, Sđd, tr 40). Và khi đó linh hồn được chuẩn bị để đạt tới những trạng thái xuất thần.
5. Phó thác hay an nghỉ trong Chúa.
Đến đây lý trí của chúng ta phải nhường chỗ cho ý chí. Chính nhờ lòng khao cháy bỏng, linh hồn được xắp xếp từng cấp bậc để tiến đến sự kết hợp với Thiên Chúa, “nghĩa là được thanh tẩy, được soi sáng và trở nên hòan thiện” … Trong giai đọan này, con người có thể chiêm ngưỡng tính duy nhất thần linh qua Danh Thánh nguyên thủy là Hữu Thể và chiêm ngắm Ba Ngôi diễm phúc trong danh hiệu Thiện Hảo. Thánh Bonaventura theo thuyết Lan tỏa đã quan niệm rằng: Sự Thiện thông truyển viên mãn làm phát sinh Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong các Ngôi vị, sự Thiện cao nhất đòi hỏi một tình yêu hiến thần vô biên; sự Thiên vô biên tạo nên sự đồng bản thể thuyệt đối dẫn đến có sự tương đồng sâu xa và sự bình đảng giữa Ba Ngôi. Vì vậy khi linh hồn ta chiên ngắm sự Thiện Hảo chính là Ngôi Con, nhờ Người chúng ta mới có thể đi vào sự kết hợp với Ba Ngôi trong xuất thần.
Tóm tại, qua tìm hiểu chúng ta nhận thấy tri thức luận của Bonaventura là một một sự tổng hợp tinh tế và sáng tạo. Ngài chọn Augustine, vì chính vị thánh giáo phụ này đã tổng hợp Platon và Aristote:
“Aristote đã biết nói ngôn ngữ của khoa học và ông đã có lý khi đề nghị ngược với Platon rằng không phải tất cả nhận thức đều được soạn thảo trong thế giới các ý tưởng, Platon thì nói ngôn ngữ của sự khôn ngoan khi khẳng định các nguyên do mô thể vĩnh cửu và các ý tưởng, còn Au-tinh được Chúa Thánh Thần soi sáng, đã biết nói cả hai ngôn ngữ.” ( Etienne Gilson, Sđd, tr 6)
III. ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA BÔNAVENTURA.
Sau khi vạch ra cho chúng ta con đường tri thức để tìm kiếm Chân lý vĩnh hằng là chính Thiên Chúa, ngài tiếp tục nêu ra những tiêu chuẩn giúp con người thực hành để đạt được Thiên Chúa là điều Thiện Hảo và Hạnh Phúc. Đó chính là đạo đức học của ngài.
1. Thanh tẩy.
Sự thanh tẩy là làm cho các khả năng của giác quan phục tùng lý trí và lý trí qua hành động của mình làm cho các giác quan thể xác biến thành các giác quan tinh thần.
Theo thánh Bonaventura, chúng ta nhất thiết phải trãi qua việc thanh tẩy vì: hậu quả của tội lỗi nên các hình ảnh của thế giới làm cho ta mù quáng, không thể trở vào nội tâm nhờ trí thông minh. Tương tự, con người không thể trở về với chính mình và khao khát sự ngọt ngào nội tâm và niềm hoan lạc thiêng liêng, vì bị dục vọng lôi kéo. Hậu qua là họ không không nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong chính cõi lòng của mình (x. Bonaventura, Sđd, tr 41).
Trải qua con đường thanh luyện nhờ các nhân đức Tin, Cây, Mến, linh hồn sẽ được thanh tẩy, được soi sáng và nên hòan hảo, nhờ thế “Hình ảnh Thiên Chúa được tái tạo và linh hồn nên phù hợp với Giêrusalem thiên quốc” ( Bonaventura, Sđd, tr 42). Con đường thanh luyện diễn ra như sau: Đức tin sẽ phục hồi thính giác và thị giác thiêng liêng, Đức cậy phục hồi thính giác thiêng liêng và Đức mến phục hồi vị giác và xúc giác thiêng liêng. Các giác quan thể xác khi phục hồi sẽ trở thành các giác quan thiêng liêng, nhờ đó, con người có thể lắng nghe lời dạy của Chúa Kitô, chiêm ngắm ánh sáng huy hòang của người, và ôm trọn Ngôi Lời nhập thể và đến với Người trong tình yêu ngây ngất (x. Bonaventura, Sđd, tr 43). Đến đây, sự cảm nghiệm của con tim sẽ lấn át việc vận dụng lý trí. Sau khi các giác quan thiêng liêng được phục hồi thì “Linh hồn thấy, nghe, ngửi, nếm và ôm được những gì là đẹp đẽ, du dương và ngọt ngào nhất”( Bonaventura, Sđd, tr 43). Vai trò của lý trí phải nhường chỗ cho ý chí của con người. Bỏ lại sự suy tư của lý trí, để “trọn tâm tư ước muốn phải được đưa về Thiên Chúa và được biến đổi trong Người” (Bonaventura, Sđd, tr 62).
2. Nhờ sự soi sáng của ân sủng.
Thiên Chúa là nguồn ánh sáng lan tỏa “chiếu xuống trên tâm hồn chúng ta như những tia sáng”, giúp con người tự mình có thể tìm đường về với Thiên Chúa là nguồn ánh sáng thật, càng đến gần ánh sáng thì ánh sáng càng tỏa rạng làm thay đổi tâm hồn chúng ta: “Thấy được ánh sáng làm cho kẻ khôn ngoan phải ngây nhất ngưỡng mộ”( Bonaventura, Sđd, tr 40). Sự khao khát ước muốn, dẫn chúng ta đến những thay đổi và hành động theo tiếng lương tâm. Hành động này giúp chúng ta hiểu biết Đức Kitô chịu đóng đinh và tiến tới việc: tin vào Đức Kitô, trông cậy vào Người, yêu mến Người và nên đồng hình đồng dạng với Người. Nhờ đó, Đức Kitô vừa là ánh sáng soi chiếu cho chúng ta thấy các vẽ đẹp hài hoà của Thiên Chúa, vừa là phương tiện truyền thông các vẽ đẹp hoàn hảo ấy cho chúng ta. Đồng thời, Người cũng là tấm gương, trong đó chúng ta soi mình, biết mình để sửa đổi và trở nên giống Người; và nhờ ánh sáng của Người soi dẫn, chúng ta mới có thể đi vào trong sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa.
IV. KẾT LUẬN.
Từ việc tìm hiểu tư tưởng triết học của thánh Bonaventura, chúng ta đi đến kết luận rằng: Tư tưởng triết học của Bonavetura bàng bạc trong các tác phẩm thần học của ngài. Việc ta “lục lọi” trong các tác phẩm đó để tìm kiếm những “viên ngọc ẩn dấu” là một việc làm khó khăn không chỉ riêng ai, vì sự tinh tế và súc tích của ngài làm cho các bản văn trở nên quá cô đọng. Nhưng càng tìm kiếm chúng ta càng khâm phục sự nhuần nhuyễn của vị thánh tiến sĩ chí ái khi ngài tổng hợp các tư tưởng triết học trước đó, để tạo thành một phong cách riêng cho mình. Một tác giả đã nhận định rất hay về ngài rằng:
“Thật vậy, học thuyết thánh Bonaventura mang một đặc điểm tinh thần riêng và tiến theo những con đường mà nó đã chọn một cách ý thức để đạt tới một mục đích hoàn toàn chính xác. Đó là tình yêu Thiên Chúa, và những con đường đưa tới tình yêu ấy là thần học. Triết học phải giúp ta thể hiện được ý định của mình. Tuy đã theo dấu chân những người đi trước và tán thành một cách tự nguyện học thuyết của các bậc thầy mình…Bonaventura không ngần ngại đón nhận từ những học thuyết mới tất cả những gì giúp ngài bổ túc cho tư tưởng mình” ( Etienne Gilson, Sđd, tr 8).
Mục đích của con đường triết học của Bonaventura không nhắm tới một kiến thức uyên thâm theo sự hiểu biết thuần lý trí, nhưng làm phong phú sự hiểu biết và mộ mến của con tim, nhằm giúp cho con người tìm đến với Chân Lý Tuyệt Đối, chính nơi đó con người tìm được Bình An và Thiện Hảo. Đây là một bài học quí báu cho người viết trong hành trình khắc khoải tìm kiếm hạnh phúc đích thực của đời mình. Theo đó:
“Học thuyết của Bônaventura dạy cho biết bằng cách nào con người hướng về Thiên Chúa qua các sự vật khác, …tất cả nền triết học của ngài đều chỉ cho thấy một vũ trụ mà mỗi sự vật trong đó đều nói với ta về Thiên Chúa, đều trình bày Người cho ta theo cách thức của nó và mời gọi ta quay về với người” ( Etienne Gilson, Sđd, tr 8).
Trong niềm tin Kitô giáo, đời sống của chúng ta là một cuộc hành trình về với Thiên Chúa, nếu được thấm nhuần tư tưởng của thánh Bonaventura thì thế giới khả giác, sự rung nhịp của con tim và sự soi sáng của ân sủng là phương tiện dẫn ta đến mục tiêu ấy.
Quang Huyền, OFM
Thánh Bonaventura được mệnh danh là nhà thần bí hơn là nhà triết học, vì các tác phẩm của ngài thiên về những cảm nghiệm thần học “thần bí” thiêng liêng. Nhưng theo nhận định của một số học giả thì ngài cũng là một bậc thầy trong lãnh vực triết học. Tác giả Gisol nhận xét: “Bonaventura đã vận dụng tới những nguồn mạch triết học đúng nghĩa để xây dựng tổng hợp lý thuyết của ngài…Tính thống nhất của học thuyết thánh Bonaventura là tính thống nhất của một trí khôn lôi kéo về mình những luận đề thuộc những nguồn gốc đôi khi khác nhau song nối kết với nhau bởi những mối liên hệ họ hàng sâu xa chứ không phải là tính thống nhất của một hệ thống được xây dựng một cách biện chứng từ những nguyên lý đã được đặt làm nền tảng” (Etienne Gilson, La Philosophie au Moyen – Age Payot, Paris 1962, Lm Nguyễn Hồng Giáo phiên dịch, tr 2). Ngài đã vận dụng tài tình các tư tưởng triết học trước thời của mình như, Plato, Aristotle, Augustine, Tân Plato… vào trong các các phẩm thần học của ngài. Vì thế, ngài xứng danh là người có công đầu trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển trường phái triết - thần Phan sinh. Đây là một trường phái có chỗ đứng hết sức quan trọng trong Giáo hội và thế giới, song song với trường phái Tôma trong thời kỳ Kinh viện và trong lịch sử Giáo Hội về sau.
Vì vậy, việc tìm hiểu những tư tưởng triết học của Bonavetura là việc làm hết sức cần thiết. Nó sẽ giúp chúng ta có một sự hiểu biết về ngài và tư tưởng của ngài trong “lâu đài” triết - thần Kinh viện nói riêng và trong lịch sử triết học và thần học nhân loại nói chung. Việc làm này giúp chúng ta có thêm những hành trang quí báu trong hành trình tiến về với Đấng vô biên.
I. SIÊU HÌNH HỌC CỦA BONAVENTURA.
Thực tại của thánh Bonaventura là Mầu Nhiệm Nhập Thể. Đối với Bonaventura, thì mầu nhiệm Sáng tạo và Nhập thể như hai mặt của một đồng tiền mà thôi. Sáng tạo là cuộc nhập thể thứ nhất, Thiên Chúa thông ban chính mình cho thụ tạo; và cuộc nhập thể thứ hai là Thiên Chúa ban chính Con Một của mình cho thế giới, để cứu độ thế giới. Vì thế dấu vết của Thực Tại Siêu Việt hiện hữu tràn lan trong thế giới thụ tạo.
1. Dấu tích của Thiên Chúa trong thế giới khả giác.
Thánh Bonaventure chịu ảnh hưởng tư tưởng của Augustine về tạo dựng đã qua niện: “Thế giới là công tình tạo dựng của Thiên Chúa…vì thế thụ tạo luôn mang dấu vết của Thiên Chúa” . Bằng con mắt thể lý, chúng ta sẽ nhận diện dấu vết của Thiên Chúa trong vũ trụ. Để vũ trụ trở thành phương tiện nhận biết thực tại, chúng ta “cần phải đi qua các dấu tích vốn là vật chất, tạm thời và bên ngoài chúng ta” ( Bonaventura, Hành trình của con người lên tới Thiên Chúa, bản dịch của Nguyễn Đoàn Tân, Học viện Phanxicô 2007, tr 16). Khi đó, chúng ta nhận ra Thiên Chúa nhờ các dấu vết Người đã để lại trong các sự vật, đó là những chứng cớ về sự hiện hữu của Người mà người ta rút ra từ việc suy ngắm thế giới khả giác.
Theo quan đểm của Bonaventura, vũ trụ là một cuốn phúc âm thứ hai, qua đó chúng ta: “Trực tiếp nhận ra Thiên Chúa hiện diện dưới chuyển động, dưới trật tự, sự hoà hợp, vẻ đẹp và sự xếp đặt của vạn vật…đối với một tâm trí thanh sạch, mỗi sự vật và mỗi khía cạnh của mỗi sự vật đều tiết lộ sự hiện diện sâu kín của Đấng làm ra nó” (Etienne Gilson, Sđd, tr 3).
Tóm lại, khi suy ngắm thế giới khả giác chúng ta có thể tìm thấy ở đó dấu vết của Thiên Chúa ở ngoài chúng ta, bởi vì tất cả mọi đặc tính của sự vật đòi hỏi phải có một nguyên nhân đứng sau nó. Các dấu vết này thể hiện trong sự thống nhất, chân lý và sự tốt lành của sự vật (x. Bonaventura, Sđd, tr 31)
2. Hình ảnh của Thiên Chúa trong con người.
Thánh Bonaventura mời gọi chúng ta quay về với tâm hồn của chúng ta, ở đó chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng hình ảnh của Thiên Chúa cách rõ ràng. Ngài nói: “Chúng ta phải tiến vào trong thực tại nội tâm chúng ta, tức là hình ảnh Thiên Chúa một hình ảnh vĩnh cửu, thiêng liêng và bên trong chúng ta” (Bonaventura, Sđd, tr 14); và chính “hình ảnh này sẽ giúp chúng ta tiến sâu vào chân lý của Thiên Chúa” (Bonaventura, Sđd, tr 16).
Nếu những chứng cớ dựa vào thế giới khả giác mà thánh Bonaventura cung cấp cho chúng ta như những sự hiển nhiên chói loà mà ta có thể nhận thấy các dấu vết của Người, thì khi trở về với tâm hồn, tâm trí của chúng ta cung cấp cho ta điều quan trọng hơn là chính hình ảnh của Thiên Chúa.
Khi tìm kiếm Chúa trong linh hồn chúng ta, chúng ta qui hướng về chính Người. Người không chỉ là nguyên nhân mà còn là đối tượng của linh hồn chúng ta. Trí năng của chúng ta chỉ hiểu được các đối tượng của nó nhờ ý tưởng về một Hữu Thể tinh tuyền, toàn vẹn và tuyệt đối. Chính nhờ sự hiện diện của ý tưởng về hoàn hảo và tuyệt đối trong ta mà ta có thể biết được cái đặc thù là bất toàn và tương đối.
Vậy với khả năng nhận biết của lý trí qua suy tư và tưởng tượng, chúng ta có thể nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta.
3. Vượt qua thế giới khả giác tiến đến Beyond (Siêu việt) để biết Danh Thánh Thiên Chúa.
Đây là giai đoạn cuối cùng chúng ta có thể nhận diện sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thánh Bonavetura nói: “Chúng ta phải tiến lên cùng cái vĩnh cửu nhất, thiêng liêng nhất và ở trên chúng ta bằng cách nâng con mắt của chúng ta lên tới nguyên lý tiên khởi. Việc làm này sẽ đưa chúng ta lên tới niềm hoan lạc được biết Thiên Chúa và kính sợ sự cao cả của Người” (Bonaventura, Sđd, tr 16).
Theo thánh Augustine, “trong chúng ta có …ánh sáng của lý trí vĩnh cửu, trong ánh sáng này ta thấy được chân lý bất di bất dịch” (Entienne Gilson, Sđd, tr 6). Thánh Bonaventura đi theo quan điểm này, ngài cho rằng nhờ sự chiếu sáng của vĩnh cửu và ân sủng, chúng ta mới có thể nhận ra Danh Thánh của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu Kitô Trung gian. Đó là Hiện Hữu tuyệt đối và Sự Thiện Hảo tuyệt đối. Ở cấp bậc này, chỉ cần phải dành cho lời nói và chữ viết phần ít thôi, nhưng cần dành tất cả cho ân huệ Thiên Chúa nghĩa là cho Chúa Thánh Thần soi sáng. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa ở trên chúng ta là biết Danh Thánh của Người hay “Bản sao” của Người.
Tóm lại, dưới nhãn quan của thuyết Duy thực, Bonaventura đã đi đến tóm kết siêu hình học của mình, bằng cách đề cập đến sự tương quan giữa cái ta thấy thay đổi và cái đứng bên trong làm cho biến đổi (x. số 3).
II. TRI THỨC LUẬN CỦA BONAVENTURA
Theo quan điểm của thánh Bonaventura thì con người đến từ thực tại và luôn khao khát trở về với Thực Tại vĩnh cửu, đó là Hạnh Phúc và Thiện Hảo. Trong cuốn “Hành trình của con người lên tới Thiên Chúa” , thánh Bonaventura vạch ra cho chúng ta năm bước đi như là “các bậc thang” và là “kim chỉ nam” , giúp con người vươn lên tới Thực Tại siêu việt đó.
1. Khao khát tìm kiếm Thiên Chúa.
Con người khao khát, khắc khoải tìm kiếm Thiên Chúa, lòng khao khát này “vượt trên mọi hiểu biết”, thúc đẩy con người vượt ra khỏi chính mình để tìm kiếm Thiên Chúa. Đây cũng là kinh nghiệm của thánh Bônaventura: “Được thúc đẩy bởi gương sáng của Phanxicô, tôi đã hằng ao ước sự bình an này” ( Bonaventura, Sđd, lời ngỏ).
Trong bước khởi đầu này việc cầu nguyện sẽ giúp con người hướng tâm hồn mình lên, để tìm kiếm Hạnh Phúc vĩnh cửu: “Cầu nguyện là người mẹ và là nguồn mạch phát xuất động tác đi lên của tâm hồn hướng thượng” ( Bonaventura, Sđd, tr 15). Ở bậc này, thụ tạo xung quanh trở thành tấm gương phản ánh những điều chúng ta tìm kiếm.
2. Vũ trụ là tấm gương.
Với lòng khao khát, ước muốn Thiên Chúa thì vũ trụ, con người và vạn vật trở nên tấm gương. Khi nhìn vào tấm gương này, chúng ta thấy chính mình và nhìn qua tấm gương chúng ta thấy thế giới khác với chính mình: “Thật thế, trí năng phải cậy tới nhận thức khả giác để biết tất cả những gì xa lạ với nó, nghĩa là biết tất cả những gì không phải là nó” ( Bonaventura, Sđd, tr 15).
Kế tiếp, thánh Bonaventura sử dụng thuyết Lan tỏa để giải thích dấu tích của Thiên Chúa trong vũ trụ. Theo đó, thế giới thụ tạo như tấm gương phản ánh dấu tích của Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, chỉ đường cho chúng ta tìm kiếm Ngài.
3. Phương tiện nhìn thấy: giác quan.
Để nhìn thấy các dấu tích của Thiên Chúa, chúng ta dùng đến giác quan của mình: “Hãy nhìn cho kỹ, bạn sẽ thấy Thiên Chúa gần bạn biết bao” . Nhờ các giác quan thể lý, qua các hoạt động “phát sinh”, “khóai cảm” và “phán đoán” , các dấu vết của Thiên Chúa trong vũ trụ đi vào trong ý thức của chúng ta. Ngài nói: “Theo cách đó toàn bộ thế giới khả giác đi vào trong tâm linh con người” ( Bonaventura, Sđd, tr 27).
Thánh Bonaventura trở về với tri thức luận của Platon bằng cách vượt qua thế giới khả giác đưa chúng ta đến chân lý khả niện: “Chúng ta nhờ tới một ánh sáng nội tâm, ánh sáng này tự biểu lộ ra trong các nguyên lý của các khoa học và của chân lý tự nhiên, vốn là bẩm sinh đối với con người. Các thứ đó đều thuộc về một bậc nhận thức cao hơn, ở đó cảm năng không còn chỗ nữa” (Etienne Gilson, Sđd, tr 5). Tuy nhiên, do hậu quả của tội lỗi, tâm trí con người u mê và đầy dục dọng nên thực tại, dấu vết của Thiên Chúa bị lu mờ. Con người cần thiết phải trãi qua việc thanh luyện. Trong khi thanh luyện, nhờ ánh sáng vĩnh cửu soi sáng, các giác quan thể lý biến đổi thành các giác quan tinh thần và “chúng ta được đưa dẫn tới tấm gương của tâm hồn, trong đó các thực tại thần linh sáng ngời” ( Bonaventura, Sđd, tr 32).
4. Chiêm niệm về Thiên Chúa.
Cùng với ân sủng của Thiên Chúa ban cho thân thể ta và bằng con mắt đã thanh tẩy qua các nhân đức Tin-Cậy-Mến, chúng ta suy niệm về Thiên Chúa. Khi suy niện bằng các giác quan của tinh thần, “linh hồn ta có thể thấy, nghe, ngửi, nếm và ôn lấy Đức Lang quân” ( Bonaventura, Sđd, tr 40). Và khi đó linh hồn được chuẩn bị để đạt tới những trạng thái xuất thần.
5. Phó thác hay an nghỉ trong Chúa.
Đến đây lý trí của chúng ta phải nhường chỗ cho ý chí. Chính nhờ lòng khao cháy bỏng, linh hồn được xắp xếp từng cấp bậc để tiến đến sự kết hợp với Thiên Chúa, “nghĩa là được thanh tẩy, được soi sáng và trở nên hòan thiện” … Trong giai đọan này, con người có thể chiêm ngưỡng tính duy nhất thần linh qua Danh Thánh nguyên thủy là Hữu Thể và chiêm ngắm Ba Ngôi diễm phúc trong danh hiệu Thiện Hảo. Thánh Bonaventura theo thuyết Lan tỏa đã quan niệm rằng: Sự Thiện thông truyển viên mãn làm phát sinh Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong các Ngôi vị, sự Thiện cao nhất đòi hỏi một tình yêu hiến thần vô biên; sự Thiên vô biên tạo nên sự đồng bản thể thuyệt đối dẫn đến có sự tương đồng sâu xa và sự bình đảng giữa Ba Ngôi. Vì vậy khi linh hồn ta chiên ngắm sự Thiện Hảo chính là Ngôi Con, nhờ Người chúng ta mới có thể đi vào sự kết hợp với Ba Ngôi trong xuất thần.
Tóm tại, qua tìm hiểu chúng ta nhận thấy tri thức luận của Bonaventura là một một sự tổng hợp tinh tế và sáng tạo. Ngài chọn Augustine, vì chính vị thánh giáo phụ này đã tổng hợp Platon và Aristote:
“Aristote đã biết nói ngôn ngữ của khoa học và ông đã có lý khi đề nghị ngược với Platon rằng không phải tất cả nhận thức đều được soạn thảo trong thế giới các ý tưởng, Platon thì nói ngôn ngữ của sự khôn ngoan khi khẳng định các nguyên do mô thể vĩnh cửu và các ý tưởng, còn Au-tinh được Chúa Thánh Thần soi sáng, đã biết nói cả hai ngôn ngữ.” ( Etienne Gilson, Sđd, tr 6)
III. ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA BÔNAVENTURA.
Sau khi vạch ra cho chúng ta con đường tri thức để tìm kiếm Chân lý vĩnh hằng là chính Thiên Chúa, ngài tiếp tục nêu ra những tiêu chuẩn giúp con người thực hành để đạt được Thiên Chúa là điều Thiện Hảo và Hạnh Phúc. Đó chính là đạo đức học của ngài.
1. Thanh tẩy.
Sự thanh tẩy là làm cho các khả năng của giác quan phục tùng lý trí và lý trí qua hành động của mình làm cho các giác quan thể xác biến thành các giác quan tinh thần.
Theo thánh Bonaventura, chúng ta nhất thiết phải trãi qua việc thanh tẩy vì: hậu quả của tội lỗi nên các hình ảnh của thế giới làm cho ta mù quáng, không thể trở vào nội tâm nhờ trí thông minh. Tương tự, con người không thể trở về với chính mình và khao khát sự ngọt ngào nội tâm và niềm hoan lạc thiêng liêng, vì bị dục vọng lôi kéo. Hậu qua là họ không không nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong chính cõi lòng của mình (x. Bonaventura, Sđd, tr 41).
Trải qua con đường thanh luyện nhờ các nhân đức Tin, Cây, Mến, linh hồn sẽ được thanh tẩy, được soi sáng và nên hòan hảo, nhờ thế “Hình ảnh Thiên Chúa được tái tạo và linh hồn nên phù hợp với Giêrusalem thiên quốc” ( Bonaventura, Sđd, tr 42). Con đường thanh luyện diễn ra như sau: Đức tin sẽ phục hồi thính giác và thị giác thiêng liêng, Đức cậy phục hồi thính giác thiêng liêng và Đức mến phục hồi vị giác và xúc giác thiêng liêng. Các giác quan thể xác khi phục hồi sẽ trở thành các giác quan thiêng liêng, nhờ đó, con người có thể lắng nghe lời dạy của Chúa Kitô, chiêm ngắm ánh sáng huy hòang của người, và ôm trọn Ngôi Lời nhập thể và đến với Người trong tình yêu ngây ngất (x. Bonaventura, Sđd, tr 43). Đến đây, sự cảm nghiệm của con tim sẽ lấn át việc vận dụng lý trí. Sau khi các giác quan thiêng liêng được phục hồi thì “Linh hồn thấy, nghe, ngửi, nếm và ôm được những gì là đẹp đẽ, du dương và ngọt ngào nhất”( Bonaventura, Sđd, tr 43). Vai trò của lý trí phải nhường chỗ cho ý chí của con người. Bỏ lại sự suy tư của lý trí, để “trọn tâm tư ước muốn phải được đưa về Thiên Chúa và được biến đổi trong Người” (Bonaventura, Sđd, tr 62).
2. Nhờ sự soi sáng của ân sủng.
Thiên Chúa là nguồn ánh sáng lan tỏa “chiếu xuống trên tâm hồn chúng ta như những tia sáng”, giúp con người tự mình có thể tìm đường về với Thiên Chúa là nguồn ánh sáng thật, càng đến gần ánh sáng thì ánh sáng càng tỏa rạng làm thay đổi tâm hồn chúng ta: “Thấy được ánh sáng làm cho kẻ khôn ngoan phải ngây nhất ngưỡng mộ”( Bonaventura, Sđd, tr 40). Sự khao khát ước muốn, dẫn chúng ta đến những thay đổi và hành động theo tiếng lương tâm. Hành động này giúp chúng ta hiểu biết Đức Kitô chịu đóng đinh và tiến tới việc: tin vào Đức Kitô, trông cậy vào Người, yêu mến Người và nên đồng hình đồng dạng với Người. Nhờ đó, Đức Kitô vừa là ánh sáng soi chiếu cho chúng ta thấy các vẽ đẹp hài hoà của Thiên Chúa, vừa là phương tiện truyền thông các vẽ đẹp hoàn hảo ấy cho chúng ta. Đồng thời, Người cũng là tấm gương, trong đó chúng ta soi mình, biết mình để sửa đổi và trở nên giống Người; và nhờ ánh sáng của Người soi dẫn, chúng ta mới có thể đi vào trong sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa.
IV. KẾT LUẬN.
Từ việc tìm hiểu tư tưởng triết học của thánh Bonaventura, chúng ta đi đến kết luận rằng: Tư tưởng triết học của Bonavetura bàng bạc trong các tác phẩm thần học của ngài. Việc ta “lục lọi” trong các tác phẩm đó để tìm kiếm những “viên ngọc ẩn dấu” là một việc làm khó khăn không chỉ riêng ai, vì sự tinh tế và súc tích của ngài làm cho các bản văn trở nên quá cô đọng. Nhưng càng tìm kiếm chúng ta càng khâm phục sự nhuần nhuyễn của vị thánh tiến sĩ chí ái khi ngài tổng hợp các tư tưởng triết học trước đó, để tạo thành một phong cách riêng cho mình. Một tác giả đã nhận định rất hay về ngài rằng:
“Thật vậy, học thuyết thánh Bonaventura mang một đặc điểm tinh thần riêng và tiến theo những con đường mà nó đã chọn một cách ý thức để đạt tới một mục đích hoàn toàn chính xác. Đó là tình yêu Thiên Chúa, và những con đường đưa tới tình yêu ấy là thần học. Triết học phải giúp ta thể hiện được ý định của mình. Tuy đã theo dấu chân những người đi trước và tán thành một cách tự nguyện học thuyết của các bậc thầy mình…Bonaventura không ngần ngại đón nhận từ những học thuyết mới tất cả những gì giúp ngài bổ túc cho tư tưởng mình” ( Etienne Gilson, Sđd, tr 8).
Mục đích của con đường triết học của Bonaventura không nhắm tới một kiến thức uyên thâm theo sự hiểu biết thuần lý trí, nhưng làm phong phú sự hiểu biết và mộ mến của con tim, nhằm giúp cho con người tìm đến với Chân Lý Tuyệt Đối, chính nơi đó con người tìm được Bình An và Thiện Hảo. Đây là một bài học quí báu cho người viết trong hành trình khắc khoải tìm kiếm hạnh phúc đích thực của đời mình. Theo đó:
“Học thuyết của Bônaventura dạy cho biết bằng cách nào con người hướng về Thiên Chúa qua các sự vật khác, …tất cả nền triết học của ngài đều chỉ cho thấy một vũ trụ mà mỗi sự vật trong đó đều nói với ta về Thiên Chúa, đều trình bày Người cho ta theo cách thức của nó và mời gọi ta quay về với người” ( Etienne Gilson, Sđd, tr 8).
Trong niềm tin Kitô giáo, đời sống của chúng ta là một cuộc hành trình về với Thiên Chúa, nếu được thấm nhuần tư tưởng của thánh Bonaventura thì thế giới khả giác, sự rung nhịp của con tim và sự soi sáng của ân sủng là phương tiện dẫn ta đến mục tiêu ấy.
Quang Huyền, OFM
Subscribe to:
Posts (Atom)